Phương Pháp Jakarta - Lịch Sử Các Hoạt Động Bí Mật Của CIA Thời Chiến Tranh Lạnh Ở Đông Nam Á Và Mỹ Latin - Vincent Bevins BÌNH CHỌN SÁCH HAY NHẤT 2020 CỦA KÊNH TRUYỀN HÌNH NPR, TẠP CHÍ FINANCIAL TIMES VÀ GQ Phương pháp Jakarta là một khảo cứu lịch sử chính trị, được viết như một phóng sự điều tra dài kỳ, về
Bên cạnh nhiều công trình nghiên cứu phê bình, vận dụng nhiều phương pháp mới, tiếp cận dưới nhiều góc độ mới, đã đem lại nhiều thành tựu hết sức quan trọng, thể hiện một quan niệm cỡi mở về tính chất đồng đại của phê bình văn học, là nhằm vào đời sống
Trên đây là những chia sẻ của Phê Bình Văn Học về 8 biện pháp tu từ thông dụng trong chương trình học của các em. Chúng tôi tin rằng bài viết này sẽ thực sự mang lại những kiến thức quý báu, giúp các em nhận biết, phân biệt và áp dụng tốt các biện pháp tu từ trong
Năm 1963, ở miền Nam, khi phản đối phương pháp xã hội học – lịch sử của ông Nguyễn Bách Khoa (bút hiệu của Trương Tửu), ông Nguyễn Văn Trung chủ trương nghiên cứu – phê bình văn học phải tập trung vào tác phẩm, và theo ông, tập trung vào tác phẩm có nghĩa là bám sát
ĐỀ TÀI: "PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM HỌC TỐT MƠN. TỐN LỚP 4". 1. LUAN VAN CHAT LUONG download. : add luanvanchat@agmail.com. A.TÓM TẮT. Vấn đề học sinh yếu kém, chất lượng “ảo’’ đặc biệt là mơn Tốn khơng chỉ là nỗi lo. của các thầy cơ giáo, của ngành giáo dục, mà
. Lý thuyết hậu thực dân ra đời vào khoảng đầu thập niên 1990, trước hết, từ ảnh hưởng của cuốn Orientalism của Edward W. Said, xuất bản lần đầu năm 1978 Phần tóm lược dưới đây chỉ nhằm cung cấp cho bạn đọc một tấm bản đồ’ của các lý thuyết văn học lớn trên thế giới từ đầu thế kỷ 20 đến nay, chủ yếu để giúp bạn đọc dễ theo dõi các bài viết về lý thuyết và phê bình văn học đăng tải trên Tiền Vệ. Khi đọc, xin bạn đọc lưu ý cho một điểm không có một lý thuyết nào có thể được tóm lược một cách trung thành và trung thực, do đó, tấm bản đồ’ này chỉ nên được sử dụng như một cơ sở để tham khảo, từ đó, đọc thêm, hơn là để đánh giá các lý thuyết ấy. Với mục đích giới thiệu’, tôi chỉ chọn một số những lý thuyết chính và có ảnh hưởng nhất mà thôi. ó là Hình thức luận của Nga Formalism Phê Bình Mới của Anh và Mỹ New Criticism Cấu trúc luận Structuralism Hậu cấu trúc luận / Giải cấu trúc Poststructuralism/Deconstruction Các lý thuyết Mác-xít Marxist Theories Thuyết người đọc Reader Theory Phân tâm học Psychoanalysis Nữ quyền luận Feminism Thuyết lệch pha Queer Theory Chủ nghĩa hậu thực dân Postcolonialism Chủ nghĩa hậu hiện đại Postmodernism Chủ nghĩa tân duy sử New Historicism và Chủ nghĩa duy vật văn hoá Cultural Materialism Về tài liệu tham khảo, tôi chỉ ghi những tác phẩm chính, mới và dễ tìm nhất, chủ yếu bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Nguyễn Hưng Quốc ___________________ CHỦ NGHĨA HẬU THỰC DÂN Lý thuyết hậu thực dân ra đời vào khoảng đầu thập niên 1990, trước hết, từ ảnh hưởng của cuốn Orientalism của Edward W. Said, xuất bản lần đầu năm 1978, trong đó, Said giải mã quan hệ quyền lực giữa phương ông và phương Tây qua các hình thức diễn ngôn, chủ yếu qua việc sáng tạo nên khái niệm phương ông’ như một “cái Khác” Other so với phương Tây. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc hình thành lý thuyết hậu thực dân chính là sự bất lực của các lý thuyết Tây phương trong việc lý giải tính chất phức tạp trong nền văn học các nước cựu thuộc địa. Hầu hết các lý thuyết về mỹ học, thể loại cũng như phong cách ở Tây phương trước đây đều được xây dựng trên tiền đề về tính phổ quát của văn học và triết học những gì đúng và hay ở nơi này thì cũng sẽ đúng và hay ở những nơi khác. Thực chất đó là một thứ chủ nghĩa độc tôn monocentrism về văn hoá và chính trị, kết quả của chủ nghĩa đế quốc và thực dân kéo dài nhiều thế kỷ trong lịch sử. Từ giữa thế kỷ 20, khi tất cả các thuộc địa dần dần đều được giải thực, người ta nhận thấy văn học từ các xứ cựu thuộc địa có cái gì không nằm hẳn trong các quy phạm vốn phổ biến ở Tây phương. Khám phá này trở thành tự giác và có sức thuyết phục mạnh mẽ với lý thuyết về một thứ chủ nghĩa phương ông của Edward W. Said lý thuyết hậu thực dân ra đời. Cũng như hầu hết các lý thuyết đã thành trường phái khác, lý thuyết hậu thực dân, thật ra, không phải là một cái gì thống nhất hoàn toàn. Tính chất thiếu thống nhất ấy thể hiện ngay trong cách viết một số người đề nghị dùng gạch nối ngăn giữa tiền tố hậu’ và từ thực dân’ post-colonialism như một dấu mốc thời gian nhấn mạnh vào quá trình giải thực ở các quốc gia cựu thuộc địa; một số khác – hiện nay đang là số đông – chủ trương viết liền, không có gạch nối postcolonialism để nhấn mạnh vào những hậu quả kéo dài đến tận ngày nay của chủ nghĩa thực dân. Ngoài sự khác biệt về thời gian, các lý thuyết gia cũng không đồng ý với nhau về không gian mà lý thuyết hậu thực dân bao trùm. Với một số học giả, cái gọi là văn học hậu thực dân chỉ giới hạn trong những tác phẩm được viết ra ở các quốc gia thuộc địa và trong thời gian thuộc địa; còn tác phẩm được các cây bút thực dân viết ra thì được xếp vào một phạm trù khác, mệnh danh là Diễn ngôn thực dân học’ Colonial Discourse Studies. Một số khác, đông hơn, quan niệm lý thuyết hậu thực dân bao trùm toàn bộ mọi nền văn hoá chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc từ thời bành trướng của thực dân cho đến tận ngày nay. Nghĩa là, không phải chỉ có nền văn hoá các nước thuộc địa mà cả văn hoá các quốc gia đi chinh phục và bóc lột các nước khác cũng nằm trong quỹ đạo của các ảnh hưởng ấy. Bởi vậy, trong phạm vi văn học, đối tượng nghiên cứu của lý thuyết hậu thực dân gồm hai nhóm chính một, các nhà văn và nhà thơ thuộc các quốc gia thực dân khi họ tiếp cận với các đề tài liên quan đến thực dân và thuộc địa; và hai, quan trọng nhất, những cây bút sống trong các thuộc địa, trong đó, có một số thuộc địa được hình thành chủ yếu từ những người di dân đến từ mẫu quốc như Úc, Tân Tây Lan, Canada và, trong chừng mực nào đó, có thể kể cả Mỹ, còn lại, các thuộc địa gồm tuyệt đại đa số là dân bản xứ, tức thuần là dân bị trị, như hầu hết các quốc gia Phi châu, các quốc gia vùng Caribbean, vùng đảo Nam Thái Bình Dương, Pakistan, Scri Lanka, Malaysia, Singapore, Bangladesh… và, dĩ nhiên, Việt Nam. Với nhóm trên, các nhà phê bình thuộc thuyết hậu thực dân tìm cách phân tích quá trình bóp méo kinh nghiệm, hiện thực và lịch sử chinh phục và bóc lột của các nhà văn, nhà thơ thực dân. Với nhóm dưới, họ tìm cách nhận diện những nỗ lực viết lại lịch sử và tái tạo bản sắc của các dân tộc thuộc địa qua văn học. Vấn đề trung tâm của các nền văn hoá và văn học hậu thực dân là quan niệm về cái khác’ otherness. Cái khác’ khác với sự khác biệt difference vì cái khác’ bao gồm cả sự khác biệt lẫn bản sắc cái khác’, tự nó, là một bản sắc và bản sắc ấy được hình thành chủ yếu trên sự phân biệt với những bản sắc khác đang chiếm giữ vị trí trung tâm. Nó là một thứ con rơi vừa được sinh ra vừa bị từ bỏ. Nó được tạo lập từ bảng giá trị mà nó luôn luôn tìm cách phủ nhận nếu thực dân là trật tự, văn minh, duy lý, hùng mạnh, đẹp đẽ và tốt lành thì thuộc địa lại là hỗn loạn, mông muội, cảm tính, yếu ớt, xấu xí và xấu xa. Sự phủ nhận ấy được thực hiện ở thế yếu, do đó, không bao giờ thực sự triệt để. Tính chất phân vân ấy làm cho người thuộc địa không những là những cái khác’ so với thực dân mà còn là những cái khác’ so với chính quá khứ của họ. Bởi vậy, dân tộc thuộc địa nào cũng, một mặt, ngưỡng vọng quá khứ, mặt khác, họ lại thấy rất rõ trong quá khứ ấy có vô số khuyết điểm cần được khắc phục. Hậu quả là quá khứ chỉ được khôi phục từng mảnh; và với những mảnh vụn ấy, người ta không thể tái tạo được cả lịch sử người dân thuộc địa, do đó, có thể nói là có rất nhiều quá khứ nhưng lại không có lịch sử. Bên cạnh ý niệm về cái khác’ là tính chất đề kháng. Một trong những biểu hiện quan trọng nhất của tính chất đề kháng của các dân tộc thuộc địa là sự ra đời của chủ nghĩa quốc gia. Nằm ở trung tâm của chủ nghĩa quốc gia là ý niệm về bản sắc dân tộc. Trong nỗ lực xây dựng bản sắc dân tộc, các dân tộc thuộc địa thường loay hoay giữa sức đề kháng trước áp lực của văn hoá thực dân và những quyến rũ của tính hiện đại vốn gắn liền với nền văn hoá ấy, giữa hiện thực bản xứ và bảng giá trị xem chừng có tính sang cả và phổ quát ở Tây phương. Có thể xem thế áp đảo của các bảng giá trị này là một trong những chiến thắng lớn lao nhất của chủ nghĩa thực dân nó biến khái niệm Tây phương từ một thực thể địa lý thành một phạm trù tâm lý để với nó, người ta sẽ thấy phương Tây ở mọi nơi, thành cả thế giới văn minh, hơn nữa, thành mẫu mực của văn minh. Những tên tuổi tiêu biểu nhất của văn học hậu thực dân trên thế giới, về phương diện sáng tác, có Chinua Achebe, Marguerite Duras, Nadine Gordimer, Jamiaca Kincaid, V. S. Naipaul, Ngugi Wa Thiong’o, Michael Ondaatje, Salman Rushdie, Leopold Senghor, về phương diện lý thuyết, có Homi Bhabha, Frantz Fanon, Edward Said, Gayatri Chakravorty Spivak… và, đặc biệt, một người Việt Nam Trịnh Thị Minh Hà. Tài liệu tham khảo thêm Postcolonialism, a Very Short Introduction của Robert J. C. Young 2003, Oxford Oxford University Press; Postcolonial Theory A Critical Introduction của Leela Gandhi, St Leonards NSW, Australia Allen & Unwin; Culture and Imperialism của Edward W. Said 1993, London Vintage. Nguồn
Tôi nghĩ, đây là một câu hỏi thuộc loại bản thể luận. Loại câu hỏi này, lời hỏi chỉ là một, nhưng lời đáp thì có thể là nhiều, thậm chí rất nhiều. Mỗi thế hệ người cầm bút đi qua đều để lại câu trả lời của mình như những thổ dân Úc lưu lại bàn tay họ trên vách đá, khác với người đến trước và cả người đến sau. - eVăn "Phê bình văn học là gì?" là tiểu luận mới nhất và tâm đắc của Đỗ Lai Thúy. Tác giả đã âm thầm viết nó trong năm 2003, khi mà trên báo chí liên tiếp xảy ra các cuộc bút chiến xung quanh một số tác phẩm cụ thể - nhất là các bài thơ. Đỗ Lai Thúy rất không vừa ý với các cuộc phê bình này, đúng hơn, ông không vừa ý với "cách người ta phê bình"chúng. Theo ông, những cuộc tranh cãi ầm ĩ và vô bổ đó là minh chứng cho sự thiếu vắng một cái nhìn học thuật về phê bình văn học. Trong “Phê bình văn học là gì?”, Đỗ Lai Thúy trình bày những luận điểm cốt yếu nhất của ông về phê bình, những luận điểm mà ông tự đúc rút từ những kinh nghiệm cá nhân và “kinh nghiệm gián tiếp” qua việc nghiên cứu các học giả thế giới. Còn với riêng mình, như Đỗ Lai Thúy tâm sự, “Phê bình văn học là gì?” trước hết là sự tự nhận thức về chính bản thân ông với tư cách nhà nghiên cứu văn hãy tự hiểu chính ngươi! Socrate[1] 1Phê bình văn học là gì? Tôi nghĩ, đây là một câu hỏi thuộc loại bản thể luận. Loại câu hỏi này, lời hỏi chỉ là một, nhưng lời đáp thì có thể là nhiều, thậm chí rất nhiều. Mỗi thế hệ người cầm bút đi qua đều để lại câu trả lời của mình như những thổ dân Úc lưu lại bàn tay họ trên vách đá, khác với người đến trước và cả người đến sau. Và mỗi người lại có thể có câu trả lời không giống với những người cùng thế hệ mình. Tùy vào truyền thống văn hóa và tài năng cá nhân. Những tiếng đáp khác nhau ấy không loại trừ nhau hoặc loãng tan vào hư không, mà được thời gian xâu lại thành một chuỗi. Tự thân, chắc nó không phải là chân lý, là đạo, nhưng là một con đường không có điểm cuối dẫn đến chân lý. Phê bình văn học có thể hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa thông tục của ngôn ngữ thường nhật hay nghĩa hẹp, nghĩa chuyên môn của khoa học văn học. Theo nghĩa thứ nhất, phê bình chỉ bất kỳ một sự khen chê, bình phẩm, đánh giá nào đó về một tác phẩm, một sự kiện văn học, một tác giả, từ vi mô một nhãn tự, một câu văn, một dòng thơ đến vĩ mô một sự nghiệp sáng tạo, một nền văn học dân tộc. Nó có thể chỉ là một lời nhận xét thông thường thoát ra từ cái miệng bình dân của con nhà khó, nhưng cũng có thể là những phương châm, những nguyên lý chỉ đạo văn chương từ một ý thức hệ triết học hoặc thẩm mỹ nào đó dội xuống giống lời thánh truyền, như lời Khổng Tử[2] về Kinh Thi, lời Aristote[3] trong Thi pháp học... Phê bình văn học ở nghĩa này là kẻ song sinh với sáng tác, có sáng tác là có phê bình. Và sáng tác thì khó còn phê bình thì dễ. Phê bình theo nghĩa rộng thường chỉ biết đến tác phẩm. Một thứ tác phẩm không có liên lạc gì đến tác giả và người đọc. Và người phê bình văn học đứng ngoài hệ thống văn học này. Hơn nữa, khi nhận xét tác phẩm, người phê bình thường cũng chỉ coi đó là một cái cớ để phát biểu những ý kiến chủ quan của mình, thoảng hoặc nếu có chiếu cố đến tác phẩm thì cũng chỉ để so sánh nó với những nguyên lý đã được định trước, những lời chỉ dạy của thánh hiền, những khuôn vàng thước ngọc của cổ nhân. Bởi vậy, phê bình này rất chú trọng đến ý nghĩa đạo đức của tác phẩm văn học, đôi khi có để mắt tới một cạnh khía nghệ thuật nào đó của nó thì cũng chỉ là để đối chiếu với những quy phạm ngặt nghèo của thể tài, cũng là một thứ đạo đức khác, đạo đức thể loại. Phê bình văn học theo nghĩa chuyên môn thì mãi đến đầu thế kỉ XIX, khi nhân loại đã bước vào Thời đại Mới, mới xuất hiện ở châu Âu. Đó là một loại hình sinh hoạt văn học gắn liền với văn hóa đô thị. Phê bình này ra đời trên cơ sở báo chí và xuất bản. Chính báo chí đã biến sách vở với tư cách là sản phẩm văn hóa từ một thứ văn hóa quà tặng thành văn hóa hàng hóa. Xưa, một bài thơ, một bài văn được tác giả viết ra trước là để cho mình di dưỡng tinh thần, sau mới để cho người thưởng thức và học tập thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo mà! Nhưng cái “người” ấy cũng chẳng được bao lăm, chỉ gồm có những thân nhân và bè bạn. Người ta chép tay hoặc thuê chép, hoặc khắc in một số bản để làm quà tặng cho nhau. Số người đọc rất hạn chế. Chỉ những người “đặc tuyển”. Nay nhờ máy in và báo chí, thơ văn được xuất bản hàng loạt, đến tay tất cả mọi người, bất kể giàu sang hay nghèo hèn, miễn bỏ tiền ra là mua được. Số người đọc là bất cứ ai này đông dần lên trở thành công chúng. Công chúng lại đẻ ra dư luận. Và dư luận, đến lượt nó, tác động đến không chỉ nội bộ người đọc, mà, như một thông tin ngược, đến cả người viết, kích thích anh ta sáng tạo tiếp tục. Nhưng còn một nguồn kích thích nữa không kém quan trọng là vật chất. Người sáng tác còn được hưởng tiền nhuận bút, thêm thu nhập để tái sản xuất sức lao động đầu óc, thậm chí có thể sống được bằng ngòi bút. Nghề văn ra đời. Từ đây, nhà văn cùng với các nhà khác như bác sĩ mở phòng khám tư, giáo viên tư thục, luật sư mở văn phòng riêng, nghệ sĩ hát rong... tạo thành một lớp trí thức độc lập, sống ngoài bộ máy nhà nước, khác hẳn với tầng lớp trí thức thư lại trước đấy. Xã hội công dân với tư tưởng dân chủ hình thành. Tư tưởng dân chủ là nền tảng tinh thần của phê bình văn học. Nó thừa nhận mọi công dân đều có quyền phê bình, tức quyền có ý kiến riêng của mình. Trước đây chỉ một thiểu số nào đó mới có cái quyền ấy, còn đa số chỉ có quyền được / chịu sự phê bình. Điều này đã hình thành một tâm thế, một khuôn mẫu suy nghĩ. Chả thế, ở Việt Nam, mãi đến tận năm 1941, khi phê bình văn học theo nghĩa hẹp, dĩ nhiên đã rất phát triển, mà Hoài Thanh, một nhà phê bình nổi tiếng, vẫn chưa rũ bỏ được tâm thế đó, còn rất ngỡ ngàng với cái quyền vừa giành được của mình, nên ở cuối Thi nhân Việt Nam, ông còn Nhỏ to tâm sự “Quyển sách này ra đời, cái điều tôi ngại nhất là sẽ mang tên nhà phê bình. Hai chữ phê bình sao nghe nó khó chịu quá! Nó khệnh khạng như một ông giáo gàn. Bình thì cũng còn được. Nhưng phê? Sao lại phê?”. Ăn cơm mới nói chuyện cũ chẳng qua là để thấy rằng, sự ra đời của phê bình văn học nói chung và đặc biệt ở Việt Nam khó khăn đến như thế nào! Nhưng, như một hạt mầm, một khi đã trồi lên được khỏi mặt đất, được tiếp xúc với ánh sáng và khí trời, thì không gì ngăn nổi sự thành cây của nó. Phê bình văn học từ đây tôi dùng từ này chỉ theo nghĩa chuyên môn giờ đây không còn là phê bình quyền uy nữa. Khẩu khí độc thoại, phán truyền, rao giảng cũng chẳng còn. Phê bình trở thành cuộc đối thoại bình đẳng của thứ quyền lực mới, quyền lực của trí tuệ. Nói theo kiểu Alvin Toffler, ở phê bình văn học cũng xảy ra hiện tượng “chuyển đổi quyền lực”. Nếu trước đây quyền lực của phê bình là quan chức Miệng người sang có gang có thép, là thân tộc Cá không ăn muối cá ươn, Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư, là tuổi tác Bảy mươi phải nghe bảy mốt và gần đây là đồng tiền Mạnh vì gạo, bạo vì tiền; Nén bạc đâm toạc tờ giấy, thì ngày nay là tri thức, là trí tuệ. Ai giàu hiểu biết hơn, ai có đầu óc hơn thì người đó có uy tín hơn, có sức thuyết phục hơn. Phê bình, bởi thế, trở thành một sinh hoạt trí thức. Một đảm bảo khác cho phê bình văn học trở thành một sinh hoạt trí thức lành mạnh là trình độ phát triển của ý thức cá nhân. Văn hóa đô thị giải phóng con người khỏi tư cách thành viên cộng đồng để trở thành một cá nhân độc lập, ý thức được giá trị tự thân của mình trong sự tôn trọng và đối lập với những cá nhân khác trong xã hội. Nhà phê bình của ý thức tập đoàn do chưa có ý thức cá nhân làm cơ chế tự điều chỉnh, nên một khi giành được quyền phê bình thì rất dễ lạm dụng cái quyền đó, “tham ô” sang cả quyền của người khác. Còn nhà phê bình có ý thức cá nhân phát triển cao là một người biết được cái giới hạn quyền của mình và của người khác. Dám nói về người khác là dám chịu trách nhiệm về lời nói của chính mình. Bởi, phát ngôn về người khác là một kiểu phát ngôn về chính mình. Ý thức cá nhân phát triển khiến người ta dám nói, dám bày tỏ ý kiến của mình trước công chúng, nhưng, quan trọng hơn, ý thức cá nhân còn buộc nhà phê bình nhiều khi phải vượt qua tư cách con người để tiến đến tư cách nhà phê bình, tức khước từ phán đoán về một tác phẩm văn chương theo thị hiếu chủ quan của mình, để tuân theo những tiêu chuẩn riêng thuộc văn học, bất chấp những quyền uy. Như vậy, nhà phê bình phát ngôn không nhân danh bản thân anh ta, mà nhân danh một ý thức thẩm mỹ nào đó mà anh ta là đại diện. Người đối thoại với anh ta cũng vì một ý thức thẩm mỹ khác mà tranh luận lại. Phê bình văn học, vì thế, không còn là chuyện cá nhân, không có vấn đề “ai thắng ai” muôn thuở, mà là một cuộc đối thoại thẩm mỹ theo đúng thuần phong mỹ tục để thúc đẩy văn chương dấn thân vào những cuộc phiêu lưu tìm những giá trị thẩm mỹ khoa học muốn trở thành khoa học phải có một đối tượng riêng, một phương pháp nghiên cứu riêng. Vậy đối tượng của phê bình văn học là gì? Theo tôi, đó là tác phẩm. Người ta có thể phê bình một tác giả, một hiện tượng văn học, thậm chí một thời đại văn học, nhưng cơ sở của tất cả các phê bình trên vẫn là phê bình tác phẩm. Bởi, tác phẩm “bầu” nên nhà văn, gây thành hiện tượng, tạo ra những thời đại văn chương. Như vậy, tác phẩm vừa là ga đi mà cũng là ga đến của phê bình văn học. Tác phẩm văn học từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu không chỉ của phê bình văn học, mà còn của nhiều khoa học xã hội và nhân văn khác. Điều này cũng không có gì là khó hiểu. Với tư cách là một hiện tượng văn hóa thẩm mỹ xuất hiện trong một thời đại nhất định, tác phẩm văn học trong mắt các thế hệ sau sẽ là một tài liệu lịch sử, một tượng đài của các tư tưởng xã hội, một hiện thân của tâm lý dân tộc, một thành tựu của tư tưởng mỹ học, tư tưởng văn học... Tùy theo từng mục đích của mình, mỗi ngành khoa học đều rút tỉa từ tác phẩm văn học cạnh khía này hay cạnh khía khác của nó. Nhưng, xét cho cùng, tác phẩm văn học với các khoa học ấy bao giờ cũng chỉ là một tài liệu, một phương tiện trong thế đối lập với một nghệ thuật và một cứu cánh. Chỉ riêng với phê bình văn học, tác phẩm mới là một tồn tại tự thân, một mục đích nghiên cứu thực sự. Bởi vậy, đối với phê bình, việc xác định thế nào là tác phẩm văn học có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Và, vì mỗi trường phái và phương pháp đều có những cách hiểu khác nhau ít hoặc nhiều về tác phẩm văn học, nên ở đây tôi chỉ trình bày một quan niệm chung và cố gắng nắm bắt được sự vận động của nội hàm khái niệm này. Văn học, trước hết, là một loại hình nghệ thuật, là nghệ thuật ngôn từ. Tác phẩm văn học, do đó, là một sáng tạo ngôn từ. Có thể nói, sáng tạo là một đặc tính người. Chỉ có con người mới có sáng tạo. Con vật còn là tự nhiên, còn hoạt động theo bản năng nên không thể có sáng tạo, dẫu đôi khi chúng khéo léo hơn cả con người. Người vừa là tự nhiên, vừa vượt thoát khỏi tình trạng tự nhiên bằng cách cấp cho sự vật một ý nghĩa. Thế giới này chỉ thực sự tồn tại với con người khi nó được lấp đầy bằng các ý nghĩa. Đó là hành động sáng tạo. Sáng tạo thể hiện tự do của con người. Khi sáng tạo, hoặc khi đứng trước một sáng tạo, con người cảm thấy mình khác vạn vật, không còn giống nhiên giới nữa, thậm chí có thể cải biến thiên nhiên theo ý hướng sáng tạo của mình. Tác phẩm văn học là một sáng tạo. Từ những vật-liệu-chữ hữu hạn và bất định, nhà văn tạo nên tác phẩm. Thậm chí, vô vàn tác phẩm. Sáng tác văn học thể hiện một khả năng khai thác vật liệu không cùng, khả năng làm ra cái mới, cái độc sáng. Tác phẩm văn học chỉ neo được vào thời gian khi nó thực sự là sáng tạo, sáng tạo tới mức trở thành độc đáo, thậm chí độc nhất. Một sáng tạo như vậy sẽ không bao giờ mèm cũ, hay nói khác, cạn kiệt thông tin. Mỗi thế hệ đi qua, soi mình vào đó, đều tìm ra một nghĩa mới, của mình. Cũng cần phải nói thêm, tác phẩm văn học là một sáng tạo của trí tưởng tượng, là cái tưởng tượng. Nó không nhằm mô phỏng, thể hiện thế giới thực, mà tạo ra một thế giới không có thực tồn tại song hành với thế giới thực, dù bao giờ nó cũng được xây cất từ những vật liệu thực. Nhờ có sản phẩm tưởng tượng này mà cuộc sống thực được tiếp diễn trong cái nhịp sống phong phú, liên tục và đi lên của nó. Bởi, mọi sự chiếm lĩnh thực tại đều bao hàm sự vượt qua thực tại để đi vào lĩnh vực của cái tưởng tượng. Tác phẩm văn học là một nghệ thuật. Bởi vậy, nó có cùng những tính chất chung với những loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa, sân khấu, điện ảnh... Nói đến nghệ thuật là nói đến hình thức. Hình thức biến sự hỗn mang của vật liệu thành một trật tự thẩm mỹ, biến sự im lìm của đồ vật thành tác phẩm biết nói. Hình thức chỉ là hình thức khi nó có tính gợi cảm. Hình thức gây ra ở người thưởng ngoạn những rung động thẩm mỹ. Hình thức còn thể hiện một ý hướng thẩm mỹ như là kết quả của ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ và sự tiếp nhận tương ứng của công chúng. Người thưởng ngoạn thấy ở hình thức sự xúc động, quan niệm thẩm mỹ, nỗ lực sáng tạo của người nghệ sĩ và đồng cảm với anh ta. Và, từ đó, cùng anh ta tưởng tượng. Tác phẩm nghệ thuật còn khác đồ vật ở chỗ nó có tính không vị lợi. Một đồ vật được làm ra là để dùng, còn một bức tranh hay một bài thơ được làm ra là để chơi, một hoạt động có mục đích tự tại. Tuy nhiên, tác phẩm nghệ thuật có tính lưỡng thê, bởi đôi khi nó còn được sử dụng như một đồ vật. Nghĩa là người ta không sử dụng giá trị, bình diện ý nghĩa nội tại của nó, mà là giá trị sử dụng, bình diện công năng của nó, để trao đổi, kiếm sống. Nhưng, xét cho cùng, sự để dùng của tác phẩm nghệ thuật chỉ là cái đến sau, cái thứ yếu, phụ thuộc, còn sự để chơi mới là mục đích sống còn của nó. Tác phẩm nghệ thuật đưa người ta vào một thế giới khác với thế giới đời thường, vị lợi. Với các quy tắc trò chơi của mình, tác phẩm nghệ thuật, thỏa mãn một kích thước khác trong con người, kích thước chơi. Bởi, con người, sau khi đã là một động vật kinh tế, một động vật chính trị, còn là một động vật chơi. Văn học với tư cách là một nghệ thuật có tất cả những đặc tính trên. Nhưng văn học khác với âm nhạc, hội họa, kiến trúc,... ở vật liệu kiến tạo hình thức. Nếu vật liệu của âm nhạc là âm thanh, hội họa là màu sắc, điêu khắc là đất đá, thì vật liệu của văn học là ngôn ngữ. Văn học được coi là nghệ thuật ngôn từ là vì vậy. Vật liệu ngôn từ là vật liệu có tính tổng hợp. Nó có âm thanh của nhạc, màu sắc của họa, hình khối của điêu khắc, nhịp điệu của múa. Văn học, nhờ thế, cũng là một nghệ thuật tổng hợp. Hơn nữa, nếu vật liệu của các ngành nghệ thuật trên là vật liệu trơ, tức loại vật liệu trực tiếp lấy từ thiên nhiên, thì ngôn ngữ là vật liệu lấy từ con người, mang tính người. Âm thanh của tiếng nói người là những âm thành mang nghĩa. Con người lại là một động vật tạo nghĩa, nên nó rất chú ý đến nghĩa của từ. Chữ và nghĩa đi liền với nhau, như hình với bóng. Điều này, một mặt, làm cho văn học có vẻ như dễ tiếp nhận hơn các bộ môn nghệ thuật kể trên. Mặt khác, sự chú ý đến nghĩa một cách thái quá này, làm cho người đọc ngộ nhận rằng văn học chỉ là ý nghĩa, chỉ là bóng chữ, nên thường đi thẳng một mạch từ vật liệu ngôn từ đến nội dung tác phẩm, bỏ qua chữ, bỏ qua hình thức. Âu cũng là một kiểu bỏ mồi bắt bóng. Trong khi đó, phương thức tồn tại của nghệ thuật nói chung và của văn học nói riêng, được quyết định bằng và qua hình thức. Hình thức là sự cấu trúc hóa vật liệu theo ý đồ thẩm mỹ của nhà văn, nên hình thức chính là nghệ thuật. Còn nội dung, xét cho cùng, chỉ là một thứ vật liệu, đúng hơn tài liệu, cũng cần được cấu trúc hóa thì mới có thể thoát thai thành nghệ thuật. Hình thức của một tác phẩm văn học là ngôn ngữ, nhưng là thứ ngôn ngữ ở trong tác phẩm, tức ngôn ngữ đã được cấu trúc hóa, còn ngôn ngữ tự vị, ngôn ngữ ngoài tác phẩm thì chỉ là vật liệu. Còn nữaChú thích [1] Socrate 470-399 nhà triết học Hy Lạp, thầy học của Platon. Ông là người mở đầu cho triết học duy lý phương Tây, còn triết học tiền Socrate theo một xu hướng khác. Danh ngôn trên theo một ý kiến khác, không phải là của Socrate, mà là một câu cách ngôn Delphil. Dẫu vậy, nếu câu này ở miệng Socrate nói ra thì vẫn có sức nặng hơn, vẫn làm nổi bật hơn tính duy lý của nó. [2] Khổng Tử 511-479 nhà triết học cổ đại Trung Hoa, sau khi Khổng giáo trở thành ý thức hệ chính thống, thì ông được tôn làm vạn thế sư biểu. Các trước tác hay sách biên soạn của ông, trong đó có Kinh thi, trở thành kinh điển. [3] Aristote 384-322 nhà triết học cổ đại Hy Lạp, học trò Platon. Triết học của ông cùng với Kitô giáo thống trị tư tưởng châu Âu suốt thời trung cổ. Thi pháp học của ông, bởi thế, cũng thống trị tư tưởng văn học châu Âu cho đến Thời đại Mới. [4] Cụ thể hóa thuật ngữ của mỹ học tiếp nhận, chỉ quá trình người đọc tái tạo tác phẩm nghệ thuật bằng cách làm đầy những điểm trống, những vùng bất định của văn bản bằng cảm xúc và ý niệm của mình. Người đầu tiên đề xuất thuật ngữ này là R. Ingarden 1893-1970 nhà nghiên cứu văn học theo hiện tượng luận người Ba Lan, trong cuốn Tác phẩm văn học 1931, Trương Đăng Dung đã dịch một vài chương in trong Văn học Nước Ngoài. [5] Kết cấu vẫy gọi tên tác phẩm của W. Iser, một trong hai người sáng lập minh giải học tức chú giải học hiện đại và mỹ học tiếp nhận, người Đức.
Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy khi đánh giá về tình hình phê bình văn học theo phong cách học ở nước ta đã có lí khi cho rằng “Phê bình phong cách một tác phẩm hoặc một nhà văn chỉ bằng một vài nhận xét thì đã có nhiều. Nhưng phê bình phong cách học thì hãy còn là một con đường đang được khai phá. Và đi trên con đường này, lữ khách không chỉ bỏ lại đằng sau những các trang bị cũ, mà còn phải học hỏi và sử những công cụ mới. 10 trang Chia sẻ truongthinh92 Lượt xem 1350 Lượt tải 0 Bạn đang xem nội dung tài liệu Phong cách học với nghiên cứu, phê bình văn học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênTạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 172 PHONG CÁCH HỌC VỚI NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH VĂN HỌC NGUYỄN HUY PHÒNG* TÓM TẮT Phong cách học là một ngành khoa học nghiên cứu văn chương. Từ lâu nó được biết đến với tư cách là một công cụ phê bình văn học hiệu quả trong việc chỉ ra những nét độc đáo, đặc trưng trong sáng tác của mỗi nhà văn. Tuy nhiên, những vấn đề về nội hàm khái niệm, việc xây dựng những tiêu chí đánh giá theo phong cách học vẫn tồn tại nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Việc nhìn nhận lại sự ra đời, phát triển và những ứng dụng của phong cách học đối với phê bình văn học trong và ngoài nước là cần thiết để khẳng định tầm quan trọng của phong cách học đối với đời sống nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay. Từ khóa phong cách học, nghiên cứu phê bình văn học. ABSTRACT Stylistics in literary studies and criticism Stylistics is a science of literary studies. It has long been known as an effective instrument of literary criticism in order to point out the unique and characteristics of a writer's work. However, there have been different views on the connotation of stylistics and development of evaluation criteria for this concept. It is crucial to re-acknowledge the formation, development and application of this science in literary criticism so as to confirm the importance of stylistics in contemporary literary studies and criticism. Keywords stylistics, literary studies and criticism. * ThS, Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 1. Đặt vấn đề Đánh giá về sự phát triển của một nền văn học, có ý kiến cho rằng đó là sự phát triển của các thể loại; ý kiến khác thì khẳng định đó là sự xuất hiện, phát triển của các trường phái, trào lưu, các phương pháp sáng tác...; và một số nhà nghiên cứu thì nhấn mạnh, đề cao sự xuất hiện của các phong cách nghệ thuật lớn. Bởi mỗi nhà văn, bằng tài năng và nỗ lực sáng tạo không ngừng, sẽ tạo cho mình một lối viết, một phong cách riêng trong việc khám phá, phản ánh những vấn đề của hiện thực đời sống. Và chính nhờ sự độc đáo, khác lạ trong cách khám phá, cách nêu và giải quyết vấn đề sẽ tạo ra sự phong phú, đa dạng trong đời sống văn chương, phản ánh sinh động quy luật, bản chất của nghệ thuật sự khác lạ, không lặp lại. Nghiên cứu, phê bình văn học theo phong cách học là khuynh hướng phê bình xuất hiện sớm và đã đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, những vấn đề lí luận về phong cách đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu chưa thống nhất, nội hàm khái niệm, phạm vi ứng dụng của phong cách học với thi pháp học, phương pháp sáng tác vẫn còn chưa rõ ràng, khó phân định rạch ròi. Vì thế trong bài viết này, Ý kiến trao đổi Nguyễn Huy Phòng _____________________________________________________________________________________________________________ 173 chúng tôi muốn đưa ra cái nhìn tổng quan về phong cách học từ nguồn gốc tên gọi, các ý kiến, quan điểm của các nhà lí luận phê bình xung quanh thuật ngữ, nội hàm khái niệm phong cách đến việc ứng dụng phong cách học trong nghiên cứu văn học trên thế giới và ở Việt Nam...; từ đó thấy được ưu thế, vị trí và vai trò quan trọng của phong cách học trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. 2. Về thuật ngữ phong cách học Thuật ngữ Stylos Hi Lạp, Stylus La Mã, Style Pháp có nghĩa là phong cách học, ra đời sớm nhất ở Hi Lạp - La Mã cổ đại với ý nghĩa ban đầu chỉ nét chữ, bút pháp, nghĩa rộng hơn là chỉ tình yêu ngôn ngữ, nghệ thuật dùng từ. Như vậy trong khái niệm ban đầu, phong cách học thuộc lĩnh vực của ngôn ngữ học. Điều đó được minh chứng trong các công trình nghiên cứu của Arixtôt, Gôraxia, Xixêrôn, Xkaligher... Sang đến thời cận đại, khái niệm phong cách học không chỉ được hiểu trong phạm vi hẹp của ngôn ngữ học mà nội hàm khái niệm đã được mở rộng. Phong cách học được coi là đặc trưng nghệ thuật của nghệ thuật, một phạm trù thẩm mĩ, một hệ thống nghệ thuật biểu hiện hình thức của tác phẩm. Nhà nghiên cứu I. Vinkenman cho rằng “Phong cách học là một phương hướng riêng biệt trong nghệ thuật hình thành ở thời đại nào đó và là một hệ thống xác định của các dấu hiệu nghệ thuật tư tưởng” [3, Cùng với sự phát triển của các khuynh hướng nghiên cứu, phê bình, của đời sống văn chương nghệ thuật, tới thời hiện đại, phong cách học được coi là một phạm trù thẩm mĩ, một hiện tượng văn học nghệ thuật bao gồm trong đó tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó. Phong cách được nghiên cứu trong mối tương quan với tư tưởng, với nhà văn và với thời đại. Có thể nói, xoay quanh khái niệm phong cách học có rất nhiều ý kiến, quan điểm bình luận, đánh giá nhằm xác định rõ nội hàm, phạm vi, đặc trưng của lĩnh vực nghiên cứu. Nhưng càng nghiên cứu, các nhà khoa học lại càng nhận ra sự đa dạng, phức tạp của đối tượng. Theo Khrapchenko thì “hiện đang tồn tại một số lượng rất lớn những định nghĩa khác nhau về phong cách học văn học. Những định nghĩa này xòe ra như cái quạt giữa sự thừa nhận phong cách là một phạm trù lịch sử - thẩm mĩ rộng nhất, bao quát và sự nhìn nhận nó như những đặc điểm của những tác phẩm riêng lẻ” [3, Và với quan điểm của mình, ông khẳng định “Phong cách là phương pháp biểu đạt cách chiếm lĩnh đời sống bằng hình tượng, là phương pháp thuyết phục và hấp dẫn người đọc” [3, Như vậy, phong cách ngoài các tính chất khác, nó là biện pháp nghệ thuật, là các thủ pháp thể hiện tư tưởng và hình tượng một cách tiết kiệm, hiệu quả nhất của người nghệ sĩ. Còn theo cách hiểu truyền thống, thì phong cách được hiểu đó là tính cá thể, độc đáo, là một hệ thống các phương tiện biểu đạt, là hình thức nghệ thuật được xem xét trong tính quy luật và các nguyên tắc hài hòa. Trước sự phát triển mạnh mẽ của đời sống văn học cũng như sự xuất hiện của các khuynh hướng, trường phái Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 174 nghiên cứu, phê bình mới, phong cách học cũng đã được khu biệt, nhìn nhận một cách thỏa đáng vơi những tiêu chí nhận diện cụ thể mang tính đặc trưng so với các khuynh hướng phê bình khác. Bằng những lí thuyết về văn học và thực tiễn ứng dụng, các nhà nghiên cứu, phê bình đã dần bổ khuyết và lấp đầy những khoảng trống về lí luận của lĩnh vực nghiên cứu phức tạp nhưng đầy triển vọng như phong cách học. 3. Một số quan điểm của các nhà lí luận phương Tây về phong cách học Nói tới phong cách học, người đọc thường liên tưởng tới lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ học, mà bản chất của văn chương là nghệ thuật ngôn từ, lấy ngôn từ làm chất liệu, phương tiện biểu đạt nội dung, hình tượng, tư tưởng. Đúng như M. Gor-ki từng nói “ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học”, vì vậy khi đề cập vấn đề phong cách, hầu hết các nhà nghiên cứu đều dành sự quan tâm đặc biệt đến yếu tố ngôn ngữ, coi đó là một trong những yếu tố quan trọng quyết định phong cách của nhà văn. Vinôgrađốp cho rằng để hiểu được phong cách của nhà văn phải dựa vào sự am hiểu sâu sắc ngôn ngữ của văn học nghệ thuật trong tính đa dạng về thể loại, dựa vào sự hiểu biết các quy luật phát triển đặc điểm phong cách của thể loại “Phong cách đó là một hệ thống sử dụng về mặt mĩ học cá nhân những phương tiện biểu đạt bằng ngôn ngữ vốn có của thời kì nhất định của sự phát triển văn học nghệ thuật” [3, Pacpêlôp cũng khẳng định thành phần của phong cách gồm có ngôn ngữ, cốt truyện, những chi tiết biểu hiện. Ngôn ngữ là sự thể hiện cảm xúc rõ ràng nhất của phong cách. Cùng quan điểm này, nhà nghiên cứu Ya. Elxberg cho rằng “Phong cách trước hết bao trùm ngôn ngữ của tác phẩm, tức là ngôn ngữ nghệ thuật, thể loại, bố cục, nhịp điệu, thanh điệu, ngữ điệu, vần điệu. Nhưng đồng thời phong cách ảnh hưởng cả một số phạm trù của nội dung như tính cách, cốt truyện, tính hình tượng của tác phẩm nói chung” [3, Cụ thể hơn, V. Turin đã cụ thể hóa khái niệm phong cách học – “đó là ngôn từ được xét trong mối quan hệ của nó với hình tượng, đó là tác động qua lại thường xuyên giữa những khái niệm và những ý nghĩa nảy sinh trong ngôn từ vốn đặt vào một văn cảnh nghệ thuật” [3, Là một ngành khoa học đứng giữa ngôn ngữ và văn chương nên đôi khi việc xác định nội hàm khái niệm phong cách học vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhà nghiên cứu Đ. Likhachev đề nghị cần phân biệt rõ hai khái niệm phong cách “Phong cách như là hiện tượng ngôn ngữ văn học và phong cách như là một hệ thống hình thức và nội dung nhất định” [3, Còn V. V. Vinogradov lại có cách phân chia phong cách học về văn học thành 2 loại Phong cách học thuộc ngôn ngữ học và phong cách học thuộc nghiên cứu văn học Bên cạnh đó, khái niệm phong cách học cũng thường bị hiểu đồng nhất với thi pháp học, mặc dù giữa hai lĩnh vực nghiên cứu có sự liên hệ, tác động qua lại nhưng không thể đồng nhất. Khác với các đồng nghiệp và những nhà khoa học đi Ý kiến trao đổi Nguyễn Huy Phòng _____________________________________________________________________________________________________________ 175 trước, xem thi pháp học là lí luận văn học, Khrapchenko xem thi pháp học là khoa học nghiên cứu hệ thống các nguyên tắc, phương thức, phương tiện mĩ học dùng để sáng tạo nên các tác phẩm nghệ thuật. Ông cũng phản đối lối đồng nhất hoặc tách rời đơn giản phong cách học với thi pháp học mà cho rằng nên xem phong cách học như là một bộ phận của khoa thi pháp học rộng lớn. Nghiên cứu đặc điểm phong cách và nguyên tắc sáng tạo của nhà văn đều là nhiệm vụ của thi pháp học. Cùng quan điểm này, nhà nghiên cứu B. V. Gornung chủ trương phải phân giới dứt khoát thi pháp học với phong cách học. Ông viết “Phong cách là một tổng thể toàn vẹn những sự kiện biểu cảm khiến cho lời phát ngôn có một sắc thái ý nghĩa trọn vẹn, bất chấp cấu trúc ngữ nghĩa cơ bản của phát ngôn ấy. Cần coi những sự kiện biểu cảm này là những sự kiện phong cách sẽ được nghiên cứu không phải trong thi pháp học và từ chương học mà là trong một bộ môn ngữ văn đặc biệt” [3, Để phân biệt thi pháp học và phong cách học cũng như mối tương quan giữa chúng, những ý kiến của rất đáng được quan tâm vì giàu sức thuyết phục khi ông cho rằng “Thi pháp học như là khoa học về các hình thức, các phương tiện và phương thức tổ chức của các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, về các kiểu cấu trúc và các thể loại tác phẩm văn học; như là một khoa học có xu hướng bao quát không chỉ các hiện tượng ngôn từ thi ca mà còn cả những phương diện rất đa dạng của các tác phẩm văn học thành văn và phong cách của sáng tác ngôn từ dân gian. Còn phong cách học nghiên cứu sự phát triển của các phong cách cá nhân, chiếm vị trí trung tâm trong phong cách học văn học là những quan sát và nghiên cứu trong lĩnh vực các quy luật hình thành và phát triển của các hệ thống biểu hiện ngôn từ nghệ thuật - đây là những hệ thống có tính chất cá nhân hoặc được cá thể hóa, tức là được hình thành như những cấu trúc cố định và hoàn chỉnh - cả trong lịch sử từng nền văn học dân tộc nói riêng, cả trong lịch sử chung của văn học thế giới phong cách tác phẩm văn học, phong cách nhà văn, phong cách trường phái văn học” [3, Nghiên cứu, xem xét phong cách học ở bình diện cấu trúc, đối tượng nghiên cứu, cũng như những yếu tố tác động làm nên phong cách của nhà văn, đã nhận được nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau của các nhà lí luận, phê bình. khi nhận định về phong cách của tác phẩm văn học đã nhấn mạnh sự thống nhất của các yếu tố nội dung và những yếu tố tạo hình thức của phong cách. “Phong cách nghệ thuật của nhà văn là sự biểu hiện thế giới quan của anh ta, thế giới quan đó được thể hiện trong những hình tượng bằng các phương tiện ngôn ngữ. Bởi vậy không thể nghiên cứu phong cách nghệ thuật của nhà văn trong tính mục đích chức năng của nó mà tách rời nội dung tư tưởng - hình tượng của tác phẩm. Đồng thời, phong cách của tác phẩm văn học không phải là tu từ học đề tài, hình tượng, bố cục của tác phẩm văn học, nội dung nghệ thuật của nó nội dung này được thể hiện bằng những Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 176 phương tiện ngôn ngữ nhưng không giới hạn ở từ ngữ cũng là những yếu tố quan trọng của của phong cách, và có thể khá quan trọng, bởi vì chúng xác định cả những nguyên tắc nghệ thuật của việc lựa chọn chất liệu từ ngữ, tức là tu từ học hiểu theo nghĩa hẹp của từ đó” [3, Còn L. Nôvichenkô thì cho rằng phong cách nghệ thuật gắn liền với cá tính sáng tạo và bị chi phối bởi những tác động của thời đại, cộng đồng. “Phong cách học hiểu theo nghĩa chung nhất là vẻ đặc thù trong những tác phẩm của nhà văn hoặc của một nhóm nhà văn, vẻ đặc thù này được quy định bởi những quan điểm chung về cuộc sống và thể hiện trong những đặc điểm có tính chất đặc trưng về nội dung và hình thức của những tác phẩm ấy” [3, Ở góc độ khái quát, Ya. Elxberg cho rằng “Phong cách biểu hiện sự toàn vẹn của hình thức có tính nội dung được hình thành trong sự phát triển, trong tác động qua lại và trong sự tổng hợp các yếu tố của hình thức nghệ thuật, dưới ảnh hưởng của đối tượng và nội dung tác phẩm, của thế giới quan nhà văn và của phương pháp của ta vốn thống nhất với thế giới quan. Phong cách được hình thành từ tất cả những yếu tố ấy, nảy sinh từ chúng mà ra. Phong cách - đó là sự thống trị của hình thức nghệ thuật, là sức mạnh tổ chức của nó.” [3, Với nhà lí luận, phê bình Khrapchenko - người đã dành nhiều thời gian công sức nghiên cứu về phong cách học thì cho rằng “Mỗi một nhà văn có tài đều đi tìm những biện pháp và những phương tiện độc đáo để thể hiện những tư tưởng và hình tượng của mình, những biện pháp và những phương tiện cho phép nhà văn đó làm cho những tư tưởng và những hình tượng ấy trở nên hấp dẫn, dễ lôi cuốn, gần gũi với công chúng độc giả. Và điều đó có nghĩa là nhà văn đã tạo được phong cách của mình. Nếu như dùng một công thức vắn tắt thì phong cách cần phải được định nghĩa như phương thức biểu hiện cách chiếm lĩnh hình tượng đối với cuộc sống, như phương thức thuyết phục và thu hút độc giả” [3, Bàn về những yếu tố làm nên phong cách của nhà văn, Khrapchenko còn cho rằng yếu tố tư liệu và cách xử lí tư liệu cũng giữ vai trò quan trọng. “Phong cách không chỉ được hình thành dưới tác động của đối tượng sáng tác, của tư liệu hiện thực mà còn tích cực tổ chức nên tư liệu đó... Đặc điểm của người nghệ sĩ điêu luyện là biết sắp xếp tổ chức tư liệu, biết tách cái chủ yếu ra khỏi cái ngẫu nhiên, biết khắc phục sự chống đối của tư liệu. Cùng với tư tưởng chung, phong cách cũng có sứ mệnh kết hợp lại lại một chỉnh thể năng động những yếu tố không thuần nhất có trong tư liệu của cuộc sống, trong đối tượng sáng tác” [3, Có thể khẳng định rằng, mặc dù ra đời từ rất sớm nhưng phong cách học chỉ thực sự trở thành một lĩnh vực khoa học nghiên cứu văn học vào thế kỉ XIX. Và với sự nỗ lực tìm kiếm, định hình một dòng, một khuynh hướng nghiên cứu văn học mới, các nhà lí luận phê bình đã tạo được một cơ sở lí luận cho phong cách học. Tuy vẫn còn nhiều những ý kiến Ý kiến trao đổi Nguyễn Huy Phòng _____________________________________________________________________________________________________________ 177 chưa thống nhất trong việc xác định nội hàm, phương pháp, đối tượng nghiên cứu..., nhưng những phát biểu có tính chất khoa học và sự vận dụng có hiệu quả của phong cách học đã góp phần tạo nên những chuyển biến tích cực trong đời sống văn học ở các nước trên thế giới. 4. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng phong cách học ở Việt Nam Sau một thời gian dài kể từ khi Việt Nam mở cửa, tiếp xúc với văn hóa, văn học phương Tây những năm đầu thế kỉ XX, thuật ngữ phong cách học mới được đề cập và xuất hiện lần đầu tiên trong công trình nghiên cứu Thơ Hồ Xuân Hương Nxb Văn học, 1968 của Nguyễn Lộc. Trong công trình này, thuật ngữ phong cách trong phê bình văn học được nêu ra khi nhà nghiên cứu nhận thấy tiêu chí phân biệt thơ Hồ Xuân Hương đích thực và lộn sòng theo “mức độ và tính chất dâm tục” của nhà phê bình Trần Thanh Mại là không thỏa đáng, và ông đề nghị cần phải phân biệt theo phong cách. Tiếp đó trong bài viết “Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kì lịch sử văn học Việt Nam” của Đỗ Đức Hiểu in trên Tạp chí Văn học số 3 năm 1985, ông đã đề xuất tiêu chí phân kì các giai đoạn lịch sử văn học cần phải căn cứ vào sự xuất hiện của các tài năng văn học, các nhà nhà văn lớn. Thông qua các tác phẩm có giá trị thời đại sẽ quyết định và chi phối đến đặc trưng và sự vận động, phát triển của cả một giai đoạn, thời kì văn học. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn vừa mang những đặc trưng, dấu ấn cá nhân riêng nhưng đồng thời cũng phản ánh những nét phổ quát của thời đại mình đang sống. Nét nổi bật đó tạo ra những phong cách lớn, tiêu biểu. Vì thế, khi phân chia các giai đoạn, thời kì văn học cần phải quan tâm theo những phong cách lớn. Còn Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Nhà văn, tư tưởng và phong cách in lần đầu năm 1979, Nxb Tác phẩm mới cho rằng phong cách gắn liền với với cá tính sáng tạo của nhà văn, bởi “văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách” [5, Kế thừa tư tưởng, quan điểm của “Phong cách học chính là nghiên cứu sự phát triển của các phong cách cá nhân”, Nguyễn Đăng Mạnh đã triển khai, bổ sung khi cho ông cho rằng Đánh giá một nhà văn phải căn cứ vào ba tiêu chuẩn chính tư tưởng, tâm hồn lớn và có đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, vì “nghiên cứu một nhà văn xét đến cùng là nghiên cứu tư tưởng của ông ta” [5, Ở một khía cạnh khác, nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn trong công trình Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục Nxb Giáo dục, 1995 khi lí giải cơ sở để nữ sĩ Hồ Xuân Hương lựa chọn thể thơ Nôm truyền tụng đã viện dẫn đến phong cách Lưu hương kí... Nhưng phong cách ấy cụ thể như thế nào thì vẫn chưa được lí giải thấu đáo. Nhìn chung trong các công trình nghiên cứu chuyên biệt, các tác giả mới gọi tên của khuynh hướng phê bình mà chưa đưa ra được cơ sở lí luận cụ thể của phong cách học. Đôi khi còn bị nhầm lẫn Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 178 giữa phong cách tác giả và phong cách tác phẩm. Phải đến khi biên soạn các cuốn Từ điển, các nhà nghiên cứu đã đưa thuật ngữ phong cách học để định danh và khẳng định đó là một lĩnh vực khoa học quan trọng trong nghiên cứu, phẩm bình văn chương. Cuốn 150 thuật ngữ văn học khẳng định “Những đặc điểm phong cách dường như hiện diện ở bề mặt tác phẩm, như là một sự thống nhất hiển thị và cảm giác được của tất cả các yếu tố chủ yếu thuộc hình thức nghệ thuật. Trong nghĩa rộng, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt kiến trúc tác phẩm, khiến tác phẩm có tính chỉnh thể, có giọng điệu và màu sắc thống nhất rõ rệt” [1, Tiếp cận, tìm hiểu vấn đề phong cách học từ bình diện lí thuyết qua việc tham khảo các quan niệm, định nghĩa của các nhà nghiên cứu nước ngoài, Tôn Thảo Miên trong các bài viết “Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà văn” Tạp chí Văn học số 1/1997, “Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách” Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 5/2006 cũng đã hệ thống lại một cách khái quát các vấn đề thuộc phạm trù nghiên cứu của phong cách học, như phong cách thời đại, cá tính sáng tạo của nhà văn, thế giới quan và tài năng, vấn đề bút pháp, vấn đề ngôn ngữ... Và cuối cùng tác giả đưa ra kết luận “Nhưng tựu trung lại, phong cách được hiểu là sự thống nhất trọn vẹn của nội dung và hình thức, nó tạo nên nét riêng độc đáo của mỗi tác phẩm, đồng thời cũng là nét riêng để phân biệt tác giả này với tác giả khác, thời đại này với thời đại khác” [6, Từ những vấn đề lí luận về phong cách, đặc biệt nhờ vận dụng lí thuyết ngữ học cấu trúc của Ferdinand de Saussure, tác giả Phan Ngọc trong công trình khoa học Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều viết xong năm 1965, in lần đầu năm 1985, Nxb Khoa học Xã hội đã trở thành người đầu tiên thực hành phê bình theo phong cách học ở Việt Nam. Trong lời nói đầu cuốn sách, ông đã đề cập thực trạng nghiên cứu theo phong cách học “Phong cách học, bộ môn của ngôn ngữ học để nghiên cứu phong cách còn gặp rất nhiều khó khăn. Các khái niệm làm cơ sở cho nó như phong cách, phong cách thể hoại, phong cách thời đại, phong cách tác giả, vẫn chưa được xác định một cách nhất quán. Phong cách học chưa xây dựng được cho mình một hệ thống thao tác có hiệu lực để khảo sát phong cách tác giả một cách khách quan Phong cách học đang thiếu một lí luận nhất quán để có thể khẳng định nó như là một khoa học thực sự” [8, Trước những khoảng trống về lí luận phong cách học, tác giả đã bước đầu đưa ra được những quan điểm và cách tiếp cận đối tượng một cách thuyết phục. Theo ông muốn nghiên cứu phong cách của một tác giả, người nghiên cứu cần phải - “Xây dựng lại các khái niệm của môn phong cách học; - Phải tìm ra được những đặc điểm tiêu biểu của tác giả đó về mặt nội dung không lặp lại ở người khác; - Tiếp cận tác phẩm một cách hình thức và chứng minh chính hình thức tác giả lựa chọn là thích hợp để diễn đạt nội Ý kiến trao đổi Nguyễn Huy Phòng _____________________________________________________________________________________________________________ 179 dung này.” [8, Cũng theo Phan Ngọc, “một nghệ sĩ chỉ vĩ đại khi anh ta có những đóng góp đặc biệt mà trong thời đại mình không ai làm được. Không những thế, những đóng góp của anh ta còn vượt xa ngoài thời đại, đến nỗi thời đại sau có thể bắt chước được, mà khó có thể vượt qua”, hay “chỉ nói lên được sự cống hiến nghệ thuật riêng của từng nhà văn, lịch sử văn học mới có sự phát triển thực sự văn học, chứ không phải là lịch sử của những con người làm văn học” [8, Sau khi xác định những thao tác nghiên cứu, tác giả đã đưa ra một định nghĩa về phong cách học “Phong cách học là khoa học khảo sát các kiểu lựa chọn và giá trị biểu cảm của các kiểu lựa chọn ấy” [8, Từ những lí thuyết đó, ông đi sâu vào tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, thực hiện một loạt đối lập Truyện Kiều với tất cả những gì liên quan đến Truyện Kiều trước đó để tìm ra những cái mới, những sáng tạo của thi hào Nguyễn Du trong kiến trúc câu thơ, trong ngôn ngữ, trong ngữ pháp. Tiếp sau cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Phan Ngọc tiếp tục ứng dụng những khái niệm, thao tác của phong cách học để tìm hiểu, lí giải các hiện tượng độc đáo của đời sống văn học. Trong cuốn Thử xét văn hóa, văn học bằng ngôn ngữ học Nxb Thanh niên, 2000, ông cũng đã có những kiến giải, phát hiện thú vị khi phân tích những chuyển biến của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Tiếp cận tác giả, tác phẩm qua phê bình phong cách học đã giúp Phan Ngọc đạt được nhiều thành công, tạo ra một hướng nghiên cứu mới đầy triển vọng. Nhưng theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy thì “Định nghĩa phong cách là sự lựa chọn của Phan Ngọc thật chặt mà cũng thật lỏng. Chặt, khi nhà phê bình xuất phát từ sự lựa chọn ngôn từ của tác giả đi đến sự lựa chọn thể loại, cốt truyện, chủ đề tư tưởng. Lỏng, khi người ta đi ngược lại hành trình này” [12, Là người theo đuổi và có nhiều công trình nghiên cứu về các khuynh hướng phê bình, xuất phát từ ý tưởng của Léo Spitzer 1887-1960 - nhà ngữ văn học, phong cách học người Đức, Đỗ Lai Thúy cho rằng Phong cách là sự lệch chuẩn. Nghĩa là mỗi thời đại văn hóa tạo ra một phong cách của mình, và mỗi nhà văn sống trong thời đại đó lại có phong cách riêng. Phong cách của họ chính là sự lệch so với cái chuẩn của thời đại. Từ những ý tưởng đó, trong chuyên luận Con mắt thơ Nxb Lao động, 1992, nhà nghiên cứu đã dựng nên chân dung sinh động của các nhà Thơ mới với những cá tính, phong cách riêng độc đáo làm nên cả một thời đại trong thi ca. Ông viết “mỗi nhà Thơ mới trước hết đều phải đạt đến phong cách thời đại để rồi chống lại nó thì mới tạo ra được phong cách riêng của mình. Sự chống lại càng quyết liệt bao nhiêu thì sáng tạo cá nhân, tức phong cách riêng càng nổi bật bấy nhiêu” [12, Tiếp sau đó, trong công trình Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực Nxb Văn hóa Thông tin, 1999, ông đã khắc phục được những hạn chế trong nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước khi nhiều người còn quá lệ thuộc vào công Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 180 thức nổi tiếng của Buffon “Phong cách chính là con người” nên đã lẫn lộn phong cách tác giả và tác phẩm. Đỗ Lai Thúy đã tiếp cận vấn đề từ một hướng nghiên cứu mới đó là đi tìm sự lệch chuẩn ngôn ngữ để thấy được phong cách thơ Xuân Hương là một sự lệch chuẩn hoàn toàn so với phong cách Thanh Quan nói riêng và toàn bộ phong cách Đường thi nói chung... Song song với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 1986, nền văn học nghệ thuật nước nhà cũng có nhiều bước đột phá, phát triển. Việc biên dịch, giới thiệu những lí thuyết, khuynh hướng mới trong lí luận phê bình trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Nghiên cứu, phê bình văn học theo phong cách học ngày càng được ứng dụng rộng rãi và phát huy được hiệu quả to lớn trong đời sống văn học. Điều đó được minh chứng trong các công trình nghiên cứu về phong cách học, các luận án tiến sĩ, thạc sĩ như Văn chương tài năng và phong cách Hà Minh Đức; Nhà văn tư tưởng và phong cách Nguyễn Đăng Mạnh; Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo Trần Đăng Suyền; Văn chương và tác giả, Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ Nguyễn Ngọc Thiện; Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu Tôn Phương Lan, Lí luận và phê bình văn học Trần Đình Sử, Thi pháp hiện đại Đỗ Đức Hiểu Sự gia tăng, phát triển về số lượng các công trình khoa học có ứng dụng những thao tác, phương pháp của phong cách học, một mặt phản ánh ưu thế, triển vọng và tác dụng lớn của phong cách học trong việc đánh giá, thẩm bình các hiện tượng văn chương, mặt khác cũng phản ánh những nỗ lực của các nhà khoa học trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng một khung lí thuyết, lí luận cho ngành phong cách còn nhiều khoảng trống. Nhìn vào tên nhan đề, danh mục cũng như nội dung của từng chương, bài trong các công trình nghiên cứu trên, người đọc dễ dàng nhận thấy chưa có một công trình, một cuốn sách riêng bàn về phong cách học. Điều đó phản ánh một hạn chế trong nghiên cứu, phê bình theo phong cách học khi những tiêu chí định danh và những thao tác nghiên cứu vẫn chưa được tạo dựng một cách chặt chẽ, bài bản. 5. Kết luận Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy khi đánh giá về tình hình phê bình văn học theo phong cách học ở nước ta đã có lí khi cho rằng “Phê bình phong cách một tác phẩm hoặc một nhà văn chỉ bằng một vài nhận xét thì đã có nhiều. Nhưng phê bình phong cách học thì hãy còn là một con đường đang được khai phá. Và đi trên con đường này, lữ khách không chỉ bỏ lại đằng sau những các trang bị cũ, mà còn phải học hỏi và sử những công cụ mới. Đặc biệt là những thay đổi quan niệm về tác phẩm văn chương, về ngôn ngữ văn chương, về phong cách tác phẩm, tác giả và thời đại. Và, quan trọng hơn sau khi đã mô tả được phong cách như thế nào thì phải lí giải tại sao lại có phong cách ấy từ cái nhìn nghệ thuật và cái nhìn thế giới của nhà văn” [12, Phải chăng đó cũng là nỗi băn Ý kiến trao đổi Nguyễn Huy Phòng _____________________________________________________________________________________________________________ 181 khoăn chung và là nhiệm vụ lớn lao cao cả đang đặt ra cho các nhà lí luận phê bình có trách nhiệm, tài năng, tâm huyết trong việc xây dựng một bộ môn phê bình phong cách học để đáp ứng tốt những yêu cầu, đòi hỏi của đời sống văn học dân tộc hôm nay? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân biên soạn 2004, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Đỗ Đức Hiểu 1985, “Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử văn học”, Tạp chí Văn học, 3, 3. M. B. Khrapchenko 2002, Những vấn đề lí luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, nhiều người dịch, Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Nguyễn Lộc 1968, Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học. 5. Nguyễn Đăng Mạnh 2001, Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Tôn Thảo Miên 2006, “Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 5, 7. Tôn Thảo Miên 1997, “Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà văn”, Tạp chí Văn học, 1, 8. Phan Ngọc 2003, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Thanh niên. 9. Phan Ngọc 2000, Thử xét văn hóa, văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh niên. 10. Đỗ Lai Thúy 1992, Con mắt thơ, Nxb Lao động. 11. Đỗ Lai Thúy 1999, Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực Nxb Văn hóa Thông tin. 12. Đỗ Lai Thúy 2011, Phê bình văn học con vật lưỡng thê ấy Tư tưởng phê bình văn học Việt Nam một cái nhìn lịch sử, Nxb Hội Nhà văn và công ti Nhã Nam. 13. Đào Thái Tôn 1995, Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục, Nxb Giáo dục. Ngày Tòa soạn nhận được bài 12-6-2014; ngày phản biện đánh giá 27-6-2014; ngày chấp nhận đăng 23-10-2014 Các file đính kèm theo tài liệu này
1. Dẫn nhập 2. Phê bình Mới Anh Mỹ 3. Phê bình Xã hội học 4. Phê bình Phân tâm học 5. Phê bình Nữ quyền luận 6. Phê bình Hậu thực dân I. PHÊ BÌNH MỚI ANH MỸ NEW CRITICISM IN ENGLAND &AMERICA Phê bình Mới Anh Mỹ là gì? - Là một trường phái phê bình có vai trò hàng đầu trong môi trường học thuật ở Anh Mỹ từ những năm 20 đến những năm 60 của thế kỷ XX. - Tập trung khám phá văn bản trên mối quan hệ hữu cơ giữa hình thức và ý nghĩa, không coi trọng các yếu tố nằm ngoài văn bản. -Đặc biệt chú ý thể loại thơ ca. -Tựa trên thành tựu tu từ học, thi pháp học, ngôn ngữ học. - Xác lập những phương pháp Đọc kỹ Close -Reading. -Khái niệm Phê bình mới xuất hiện từ một bài giảng của Joel Elias Spingarn The New Criticism A Lecture Delivered at Columbia University, 9 - 3 -1910 và tên cuốn sách New Criticism của John Crowe Ransom năm 1941. Các thuật ngữ chính Key terms - Hàm hồ Ambiguity - Nghịch lý Paradox - Chủ đề Theme - Cốt truyện Plot - Tính trớ trêu Irony độ chênh giữa điều được nói và điều được ám chỉ, giữa nghĩa đen và nghĩa bóng. - Độ căng Tension - Điểm nhìn Point of view - Dạng mẫu âm thanh patterns of sound - Cấu trúc tự sự narrative structure - Văn bản dị ngữ heteroglossic - Phép chuyển nghĩa [trope] - Các biện pháp tu từ hình ảnh image, ẩn dụ metaphor, biểu tượng symbol, nhịp điệu rhythm … - Lầm lẫn về ý định Intentional Fallacy đánh đồng bài thơ với ý đồ của tác giả. - Lầm lẫn về cảm thụ Affective Fallacy nhầm lẫn ý nghĩa của văn bản với tác động cảm xúc của nó lên độc giả. - Dị biệt về diễn giải Heresy of Paraphrase khi giải thích một bài thơ, việc tóm tắt chi tiết hoặc diễn xuôi thường làm sai lệch văn bản. - Đọc kỹ Đọc gần, Đọc tỉ mỉ Close -Reading /Micro – lecture Đọc tập trung một văn bản, phân tích, lý giải hình thức của văn bản trong mối quan hệ với ý nghĩa. 1. 3. Phương pháp Đi tìm mối quan hệ giữa tư tưởng của văn bản và hình thức của nó. cấp của Đọc kỹ Đọc kỹ có bốn cấp - Cấp 1 Đọc từ vựng và ngữ pháp chú ý các khía cạnh của từ vựng, ngữ pháp và cú pháp, con số của bài diễn văn hay bất kỳ tính năng khác đóng góp cho phong cách cá nhân của nhà văn. Miêu tả hiện tượng. - Cấp 2 Đọc ngữ nghĩa khảo sát về ý nghĩa các từ những thông tin mà bài thơ mang đến. Nhận thức về ý nghĩa. - Cấp 3 Đọc kết cấu Khảo sát các mối quan hệ giữa các từ và các ý nghĩa trong văn bản. Phân tích kiểm tra, sàng lọc, đánh giá - Cấp 4 Đọc văn hóa Khảo sát mối quan hệ của các yếu tố bất kỳ của văn bản với những yếu tố bên ngoài nó văn bản khác của cùng tác giả, hoặc những bài viết khác của cùng loại của các nhà văn khác nhau; các yếu tố của lịch sử xã hội, văn hóa, triết học, tâm lý học. Lý giải 1. Các bước của Đọc kỹ - Khởi đầu đọc vài lần văn bản nắm nghĩa chung. Lập danh sách các yếu tố khảo sát. Với bút chì và văn bản đánh dấu các yếu tố cần chú ý. - Xác định nghĩa của từ, nắm bắt những từ khác lạ, từ khóa. Phân tích mối quan hệ của các từ trong câu lặp, tương đồng, đối nghịch. Lý giải sự lựa chọn của tác giả về các từ có tính cá nhân thế nào? tại sao? - Khảo sát cấu trúc văn bản triển khai thế nào ý tưởng, kết cấu - Khảo sát âm thanh và nhịp điệu các yếu tố này tác động đến ý nghĩa thế nào? Có thể dùng các khái niệm thi pháp học và tu từ học để phân tích. Khảo sát các hình thái diễn ngôn so sánh, ẩn dụ, hình ảnh, biểu tượng. - Khảo sát câu các loại câu, trật tự của câu, nhịp điệu của câu. Chú ý khoảng lặng, độ ngưng, các nghịch đảo, song song, lặp lại... Phân tích các yếu tố làm nên tính mơ hồ, đa nghĩa. - Khảo sát văn cảnh Phân tích - Khảo sát tính chất trớ trêu của văn bản - Khảo sát giọng điệu của nhân vật, người tường thuật, tác giả quan hệ giữa các yếu tố đó kiến thức tự sự học. Phân tích giọng điệu, phong cách. Tìm ra sự lựa chọn của tác giả trong sự kết hợp của tất cả các yếu tố nói trên để tạo ra một văn bản độc đáo. - Khảo sát các biện pháp tu từ đã sử dụng ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, hình tượng, biểu tượng… - Khảo sát chủ đề Phát hiện hệ thống chủ đề - Phát hiện giới tính của văn bản - Xác định cốt truyện - Xác lập một đề tài để viết về văn bản, chọn chìa khóa để mở cánh cửa vào văn câu hỏi thường gặp với người đọc Phê bình Mới -Tính hàm hồ của ngôn ngữ? Kết cấu ngôn ngữ? Các tiềm năng liên tưởng của ngôn ngữ văn chương? - Các thủ pháp văn chương đặc thù? Hàm ý của các thủ pháp này? - Phép điệp, phép so sánh, phép liệt kê, phép chơi chữ?phép chuyển nghĩa [trope]? Phép gián cách hay tạo cự ly? Các mệnh đề song song? Các nhịp điệu, vần? - Các nghịch lý về ý nghĩa và từ ngữ? -Những mỉa mai? mâu thuẫn? - Hiệu ứng của hình thức? - Các hình thức bất thường của câu? - Những mù mờ confusion về quy chiếu? - Những chuyển động trong văn bản? - Hệ thống hình tượng? Hệ thống ẩn dụ? Hệ thống biểu tượng? - Các thiết kế tự sự? Câu chuyện được kể ra như thế nào? - Mạch văn bản? Tuyến trần thuật? -Tác phẩm bắt đầu từ đâu? kết thúc thế nào? - Cách quan sát và miêu tả ? - Quan hệ giữa chủ thể và đối tượng? - Hành trình ý thức? khách quan? chủ quan? - Hiệu ứng lạ hóa? Có sự phá vỡ “tầm đón đợi” không? - Các chủ đề được phát ngôn như thế nào? Chủ đề then chốt của tác phẩm nằm ở đâu? Độ căng của chủ đề? - Các môtip giới thiệu trực tiếp/ gián tiếp - Vai trò giải trung tâm của nhân vật? - Các cuộc đối thoại có những ý nghĩa gì? - Các loại ý nghĩa? Nghĩa thông thường/ nghĩa hiển ngôn/ nghĩa đặc thù/ nghĩa tiềm ẩn nghĩa riêng? -Ý nghĩa xã hội khác nhau trong nhân vật? Giải mã những suy nghĩ của nhân vật? - Kỹ thuật xây dựng vở kịch? Diễn tiến của kịch? Hậu trường của cuộc đối thoại? Các ý định bị che giấu? -Văn bản có tập hợp ở trong mình nhiều dạng thức ngôn ngữ không? Văn bản dị ngữ -heteroglossic - Phong cách ngôn ngữ của nhân vật riêng/ chung? - Sắc thái diễn ngôn? uy quyền? mềm mỏng? biến hóa? đơn nghĩa và độc thoại - Có trích dẫn hoặc phong cách hóa và quy chuẩn hóa một diễn ngôn khác không? Ý nghĩa của việc đối thoại hóa dialogization? Những động thái đối thoại hóa? -Những từ ngữ hay hình ảnh đặc thù được dùng để thể hiện các ý nghĩa phổ quát? -Ngôn ngữ và ý nghĩa, tinh thần và vật chất, nội dung và hình thức, cái đặc thù và cái phổ quát… tương hợp, dung hòa với nhau như thế nào? -Có hòa giải thành công giữa những điều trái ngược? “Hòa điệu của những xung khắc” cái phổ quát và cái đơn nhất? Các ý nghĩa phổ quát và những nét đặc thù cụ thể?... -Những hình tượng trong tương quan với vẻ ngoài? - Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên? - Tính chất của chủ thể? - Tính chất bất ổn của tri giác? - Tính nước đôi của bài thơ? - Tính chất phân mảnh thời gian, không gian, ý nghĩa… - Ký ức và trí tưởng tượng? - Các dạng ý nghĩa tôn giáo, văn hóa, chính trị… .... cầu -Tiếp cận sâu về văn bản trong khả năng cao nhất. - Lập một hê thống câu hỏi chi tiết. - Giữ lại tính đa nghĩa và phức tạp của văn bản. 1. luận Là một phương pháp thực hành, phê bình Mới Anh Mỹ chủ yếu tập trung vào mô tả, phân tích, lý giải hơn là nhận định về giá trị thẩm mỹ hay ý nghĩa cách tân của các tác phẩm văn học. Ảnh hưởng lâu dài, sâu đậm Phê Bình Mới được giảng dạy trong hầu hết các trường đại học Mỹ, và từ Mỹ, lan rộng sang hầu hết các quốc gia nói tiếng Anh khác. về phân tích thơ ca. Rèn luyện kỹ năng phân tích sâu văn bản, là phương pháp trợ thủ hữu hiệu cho các phương pháp khác. 2. PHÊ BÌNH XÃ HỘI HỌC - SOCIOCRITICISM Phê bình Xã hội học là gì? - Là một trường phái phê bình manh nha vào thế kỷ 19, hình thành và phát triển mạnh vào thế kỷ 20, phân nhánh và dung hợp vào thế kỷ 21. - Khi tiếp cận sự kiện văn học, tập trung khảo sát những yếu tố xã hội có mặt trong văn bản. Xác lập, miêu tả, lý giải những tương quan giữa xã hội và tác phẩm văn học. - Đề cao lý trí, chú ý con người xã hội và xem trọng mối quan hệ nhân quả giữa xã hội và văn học. - Khái niệm “socio-critique” được Claude Duchet khai sinh năm 1971, khi ông đề nghị một cách đọc lịch sử -xã hội về văn bản, ấy là “một thi học nghiên cứu về tính xã hội, gắn liền với một cách đọc trên góc độ hệ tư tưởng, chú ý sự đặc thù của văn bản” C. Duchet - Phê bình Xã hội học hiện đại hiện nay có ba nhánh chính 1 Xã hội học về công việc sáng tạo Lucien Goldmann 2 Xã hội học về trường văn học Pierre Bourdieu 3 Xã hội học về tiếp nhận Hans Robert Jauss. Các phương pháp chính của Phê bình Xã hội học Các bước tiến hành của phê bình Xã hội học truyền thống 1. Chọn văn bản 2. Xác định bối cảnh ra đời của tác phẩm. 3. Tóm tắt nội dung tác phẩm. 4. Xác lập hệ thống nhân vật. 5. Xác định mâu thuẫn xã hội và tính giai cấp của các nhân vật trong tác phẩm. 6. Xác định tính điển hình của nhân vật. 7. Xác định tính điển hình của hoàn cảnh 8. Xác định xu hướng chính trị của nhà văn. 9. Đi tìm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Các bước tiến hành của phê bình Xã hội học hiện đại 1. Chọn văn bản 2. Xác lập các cấu trúc ý nghĩa trong tác phẩm. 3. Xác lập các cấu trúc xã hội tương ứng. 4. Cắt nghĩa mối quan hệ giữa cấu trúc ý nghĩa này với cấu trúc xã hội. 5. Khảo sát sự vận động của các cấu trúc trên. 6. Phát hiện mối quan hệ giữa giữa tư tưởng tác giả và tư tưởng tác phẩm nhất quán hay có một độ chênh nhất định 7. Khảo sát yếu tố chính trị trong tác phẩm văn học văn học hậu thực dân. 8. Chú ý tính xã hội- lịch sử của cách viết. 9. Khảo sát tác động của xã hội cơ chế, chính sách với tác phẩm và tác giả xã hội học văn học. 10. Khảo sát tác động của công chúng với tác phẩm và tác giả mỹ học tiếp nhận. 11. Khảo sát yếu tố giới tính trong tác phẩm văn học văn học nữ quyền. 2. 3. KẾT LUẬN 1. PBXHH là trường phái phê bình có lưu vực rộng nhất và giòng chảy dài nhất so với những trường phái PB khác. 2. Nếu phê bình xã hội học truyền thống nặng tínhquy phạm và quyết định luận thì phê bình xã hội học hiện đại cởi mở hơn, đã làm mới lại lịch sử văn chương bằng một kiếm tìm mở rộng, thông thái và nhạy cảm về phương diện xã hội. Mặt khác, nhờ những tìm tòi trên thực tế văn bản mà nó tiếp cận với ký hiệu học văn học và phân tâm học. 3 .PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC PSYCHO-CRITICISM Phê bình phân tâm học là gì? - Là xu hướng phê bình manh nha từ cuối thế kỷ XIX, với lý thuyết Phân tâm học Psychoanalysis của Sigmund Freud, phát triển mạnh mẽ trong nửa đầu thế kỷ XX, phân nhánh& dung hợp nửa sau thế kỷ XX. - Tiếp cận tác phẩm văn học trên các nguyên tắc về tâm lý học, cụ thể là vô thức. Với S. Freud là vô thức cá nhân, với Jung là vô thức tập thể. - Thuật ngữ phê bình Phân tâm học được khai sinh bởi Charles Mauron năm 1949. - Phê bình phân tâm học là một phương pháp diễn dịch. - Đối tượng của PBPTH là tâm lý của tác giả, tâm lý của nhân vật và tâm lý của độc giả. - Có hai xu hướng PBPTH cổ điển & PBPTH hiện đại Sau S. Freud, phê bình phân tâm học phát triển theo nhiều hướng 1. Tập trung vào tác giả và tiểu sử tác giả Marie Bonaparte 2. Kết hợp cả hai khuynh hướng, nghiên cứu chủ đề Charles Mauron, Vô thức trong tác phẩm và cuộc đời của Racine, G. Bachelard. 3. Tập trung vào văn bản Jean- Bellemin Noël 4. Nghiên cứu văn hóa với tâm bệnh học tộc người G. Devereux 5. Kết hợp phân tâm học và Thiền E. Fromm 6. Kết hợp phân tâm học và folklore V. Dundes 7. Phên tâm học tập trung vào người đọc N. Holland 8. Phân tâm học và cấu trúc - kí hiệu học Jacques Lacan Gợi ý về phương pháp Có nhiều hướng tiếp cận 1. Nghiên cứu nhà văn như một cá thể hoặc loại hình Tiến hành phân tâm tác giả. 2. Nghiên cứu quá trình sáng tác. 3. Nghiên cứu các loại hình và phép tắc tâm lý trong tác phẩm cấu trúc tâm lý nhân vật, khám phá ý nghĩa tiến hành phân tâm nhân vật trong tác phẩm, khi đó ít nhiều người ta xem nhân vật như là những con người thực, hình dung có một “vô thức của văn bản” thuộc về tác phẩm. 4. Nghiên cứu tâm lý độc giả thị hiếu, xu hướng đọc, những chia sẻ/ không chia sẻ… Các tiêu điểm cần phân tích -Vô thức -Bản năng tính dục -Cấu trúc nhân cách - Giấc mơ - Mặc cảm Oedip -Xung đột về tâm lý -Những mâu thuẫn, bất thường trong diễn ngôn - Các chủ đề - Hiện tượng chia cắt separation - Những môtíp mất mát loss, chấn thương, lo âu, sợ hãi, ám ảnh, trầm uất, mộng du, kháng cự, tự vệ, bế tắc và hòa giải … - Hiện tượng thiếu hụt/ bù trừ, ngưng đọng/ dịch chuyển, mất trật tự về ranh giới, lẫn lộn giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài, che giấu, thèm muốn, ngụy trang, thiếu ý thức về bản thân, không nối kết được với người khác… -Các từ ngữ thuộc tính dục và các biểu hiện tính dục của nhân vật - Cắt nghĩa hiện tượng tâm lý bằng nguồn gốc cá nhân/ nguồn gốc gia đình, xã hội… kiện để thực hành PBPTH -Thành thạo lý thuyết Freud - Hiểu biết thấu đáo về lịch sử thời đại hoặc về ngôn ngữ. -Huy động cảm xúc ở cường độ cực mạnh. -Có khả năng phân tích và tự phân tích thường xuyên Kết luận 1. Bị định kiến của xã hội 2. Phạm vi tác phẩm khảo sát hẹp 3. Nghiên cứu phê bình là công việc của ý thức mâu thuẫn. 4. Kỹ năng phân tích, cần kết hợp với nhiều thao tác khác, khó 5. Dễ bị suy diễn khiên cưỡng mơ hồ 4. PHÊ BÌNH NỮ QUYỀN FEMINISM CRITICISM Phê bình nữ quyền là gì? Là một trường phái phê bình văn học thoát thai từ phong trào chính trị xã hội đấu tranh cho quyền bình đẳng phụ nữ, phát triển mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XX, chủ trương xác lập một nền mỹ học, lý luận văn học và sáng tác văn học riêng cho giới nữ. Những dung hợp • Phê bình Nữ quyền văn bản • Phê bình Nữ quyền phân tâm học • Phê bình Nữ quyền hậu cấu trúc luận • Phê bình Nữ quyền duy vật • Phê bình nữ quyền hậu hiện đại • Phê bình nữ quyền và đồng tính • Phê bình nữ quyền hậu thuộc địa • Phê bình nữ quyền và kỹ thuật thân thể Gợi ý phương pháp tiếp cận nữ quyền - Chọn văn bản - Chú ý tác giả -Khảo sát nhân vật - Khảo sát điểm nhìn -Khảo sát hệ chủ đề -Phân tích diễn ngôn -Lý giải Các câu hỏi khi đọc nữ quyền? - Nên chọn văn bản nào? truyền miệng/ viết cũ/ mới, đàn bà/ đàn ông, tự sự/ trữ tình? -Tác phẩm được thừa nhận/ bị quên lãng/ bị phê phán? -Các nhân vật nào mang tư tưởng nữ quyền? -Các nhân vật nào mang số phận nữ giới? Kết luận Phê bình văn học Nữ quyền có lịch sử không dài, phát triển theo hướng phân nhánh và dung hợp với các trường phái khác. 5. PHÊ BÌNH HẬU THỰC DÂN POSTCOLONIAL CRITICISM 5. bình Hậu thực dân là gì? Là trường phái phê bình thuộc phạm trù hậu hiện đại, chủ trương đi tìm trong tác phẩm văn học các dấu vết của chính sách thực dân. Xuất hiện vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bắt nguồn từ tác phẩm Orientalism 1978 của Edward W. Said và tiểu luận "Postcolonial Criticism" 1992, Homi K. Bhabha. Phê bình hậu thực dân chịu ảnh hưởng PB Marxist, Phê bình Giải Cấu trúc và tư tưởng Michel Foucault . 5. 2. Các khái niệm chính? Cái khác Other/ Sự khác biệt Difference Chủ nghĩa độc tôn Monocentrism Tính nước đôi Ambivalent Tính lai ghép Hybridity Tính bắt chước Mimic Văn học hậu thực dân Post-colonialist literature Sự đề kháng Resistance Chủ nghĩa quốc gia Nationalism Diễn ngôn hậu thực dân Postcolonial discourse Diễn ngôn thực dân Colonial discourse Đối tượng -Văn học trong các nước thuộc địa/ văn học ở các nước thực dân -Văn học trong thời kỳ bị chiếm đóng/ Văn học từ thời kỳ bị chiếm đóng đến nay -Những hệ quả mà chính sách thực dân để lại trên đời sống văn học áp đặt, ảnh hưởng, kháng cự, tái tạo, những mâu thuẫn trong tâm thức dân tộc tự tôn/ tự ti, hoài cổ/ chạy theo cái mới, văn hóa, lịch sử bị phân mảnh, cắt vụn.“Người dân thuộc địa có rất nhiều quá khứ nhưng lại không có lịch sử” Nguyễn Hưng Quốc - “Văn học hậu thực dân” có các chủ đề chính +Sự biến đổi hay sự ăn mòn văn hóa xã hội Dường như mỗi khi nền độc lập được hình thành, một vấn đề chủ yếu lại nảy sinh; đâu là đặc trưng văn hóa mới? +Sai lầm trong đường lối vận dụng quyền lực và khai thác Mặc dù đã không còn bị lèo lái như một thuộc địa, người dân bản xứ dường như vẫn còn bị áp chế bởi những người định cư tại đây. Câu hỏi đặt ra là, ai là kẻ thực sự nắm quyền ở đây, và làm sao để ngày Độc lập thực sự mang ý nghĩa độc lập? +Sự tan rã và chuyển hóa của thuộc địa Chủ đề này thường được đưa ra để khảo cứu về cá nhân thay vì về tổng thể miền đất hậu thuộc địa. Những con người cá nhân thường tự hỏi mình; trên đất nước mới này, điều gì phù hợp với mình và mình có thể kiếm sống bằng cách nào? +Ứng dụng văn học Anh ngữ người ta có thể hỏi liệu ta có thể đạt được yêu cầu mục đích của các môn học hậu thuộc địa, ví dụ như phân tích văn học và văn hóa hậu thuộc địa, mà không quan tâm tới những tác phẩm văn học được viết bằng ngôn ngữ gốc của các quốc gia hậu thuộc địa hay không. Những gợi ý về phương pháp Triển khai từ các khái niệm xem mục Chú ý các yếu tố sau trong văn bản -sự hòa trộn của tái hiện và thực tại hoặc về việc lẫn lộn tái hiện với thực tại -mặc cảm tự ti/tự tôn dân tộc -những khúc xạ - những đồng hóa - sự tái hiện lịch sử - quá khứ và hiện tại, tái hiện và thực tại - bạo lực đế quốc. - kháng cự/ tuân phục - quyền lực về kinh tế, quyền lực về tình dục câu hỏi thường gặp khi đọc Phê bình Hậu thực dân -Các văn bản văn học tái hiện, hiển lộ hay ẩn ngầm, các phương diện của các áp chế thực dân như thế nào? -Văn bản tiết lộ những gì về sự phức tạp trong bản sắc hậu thuộc địa, bao gồm mối quan hệ giữa bản sắc văn hóa và bản sắc cá nhân, và những vấn đề như ý thức kép, và sự lai tạp? -Những người hay nhóm người nào được định nghĩa là “người khác” hay kẻ xa lạ trong tác phẩm? Những người/nhóm người đó được miêu tả và đối xử như thế nào? -Văn bản tiết lộ những gì về mặt chính trị / tâm lý của làn sóng chống thực dân? -Văn bản tiết lộ những gì về những tác động của sự khác biệt văn hóa – cách thức mà sắc tộc, tôn giáo, giai cấp, phái tính, định hướng giới tính, tín ngưỡng văn hóa, và phong tục kết hợp với nhau tạo nên bản sắc cá nhân – trong việc định hình nhận thức của chúng ta về bản thân và người khác, và về thế giới mà chúng ta đang sống bên trong? -Văn bản trả lời hay đưa ra nhận xét đối với những nhân vật, đề tài, hay giả thuyết của một tác phẩm thực dân được đề cao như thế nào? -Các nền văn học của các cộng đồng hậu thuộc địa có những điểm chung quan trọng nào? luận Là một trường phái tiếp cận trên xu hướng văn hóa chính trị, Phê bình Hậu thực dân ngày càng phát triển theo hướng phân nhánh ở các quốc gia. Đề cương bài giảng PGS. Ts. Nguyễn Thị Thanh Xuân GV Trường Đh KHXH&NV Tp. HCM Khoa Văn học&Ngôn ngữ > Bài viết được đăng 20/3/2014
Lượt xem 337 STYLE OF LITERATURE RESEARCH AND CRITICISM BY KIEU THANH QUE TRẦN THỊ MỸ HIỀN Trường Đại học Thủ Dầu Một, Việt Nam TÓM TẮT Kiều Thanh Quế là nhà nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX. Ông được xem là một cây bút nghiên cứu với phong cách hiếm có ở Nam Bộ. Trong khoảng 10 năm cầm bút, Kiều Thanh Quế đã để lại di sản tác phẩm khá đồ sộ. Bài viết này tìm hiểu các phương diện từ phương pháp nghiên cứu, phê bình đến cách kết cấu, văn phong, ngôn ngữ trong các bài nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế, qua đó chúng ta thấy được sự linh hoạt trong việc vận dụng đa dạng phương pháp nghiên cứu, phê bình; kết cấu bài nghiên cứu logic, tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc khoa học; lối viết thẳng thắn, thể hiện cái nhìn bộc trực đối với đối tượng nghiên cứu và vốn ngôn ngữ Nam Bộ khá đặc trưng. Từ khóa Kiều Thanh Quế; nghiên cứu văn học; phê bình văn học; phong cách. ABSTRACT Kieu Thanh Que is a Vietnamese researcher and literary critic in the first half of the twentieth century. Within 10 years of professional activities, he has a large number of works. He is considered as an outstanding researcher in the South. This article will explore not only his research methods and literary criticism but also his textual structure, style, and language in his works. The results show that he is flexible in applying various research methods, his structure of the research is logical and coherent, and his style is frank and direct to the research objectives. In addition, he also used the typical research language of the South Vietnamese in the first half of the twentieth century. Keywords Kieu Thanh Que; literary research; literary criticism; style. x x x 1. Mở đầu Trong giới nghiên cứu, phê bình ở Việt Nam, những cây bút được xem là có phong cách không quá nhiều, bởi phong cách không đi cùng với số lượng tác phẩm nhiều hoặc quá trình hoạt động lâu dài. Phong cách được hiểu như một màu sắc riêng mà chỉ riêng người đó mới có. Từ trước đến nay, Kiều Thanh Quế không phải là một cái tên quá nổi bật ở phương diện được nhắc đến trong các bộ văn học sử, hay là tác giả có lượng trích dẫn cao. Mặc dù vậy, khi tiếp cận sâu và đặt trong chính thời đại của ông, giai đoạn của nền nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, ta sẽ nhận thấy ở cây bút họ Kiều này có một năng lực hiếm thấy. Bắt đầu hoạt động văn học từ năm 24 tuổi, sự nghiệp cầm bút của Kiều Thanh Quế không quá 10 năm, cho ra đời trên dưới 10 đầu sách từ nghiên cứu, phê bình cho đến dịch thuật, khoảng 50 bài viết nghiên cứu, phê bình đăng trên các báo và tạp chí đương thời từ Nam ra Bắc. Con người ấy lúc sinh thời như cảm nghiệm trước được số phận của mình, lúc nào cũng gấp rút, hối hả trên con đường văn học, không thể hoặc không muốn chờ đợi, nhờ vậy mà tính đến năm 1945, hầu như không có cây bút nghiên cứu, phê bình nào vào thời đó có được khối lượng tác phẩm được xuất bản đồ sộ như ông. Bàn về phong cách nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế, chúng tôi sẽ tìm hiểu các phương diện gồm phương pháp nghiên cứu phê bình, kết cấu, văn phong và ngôn ngữ. 2. Nội dung Phương pháp nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế Trong tình hình các lí thuyết nghiên cứu văn học mới du nhập vào Việt Nam, mỗi người tùy vào sở trường và định hướng tư tưởng mà chọn cho mình một hướng đi. Hoài Thanh tạo ấn tượng với trường phái phê bình trực cảm; Trần Thanh Mại làm nên tên tuổi với phương pháp phê bình tiểu sử; Trương Tửu chọn phương pháp phê bình văn hóa – lịch sử và phần nào là phương pháp phê bình phân tâm học; Vũ Ngọc Phan hòa trộn giữa phương pháp phê bình tiểu sử, phê bình văn hóa xã hội, phê bình trực cảm, Đặng Thai Mai theo phương pháp phê bình xã hội học marxist… Mỗi người một thể nghiệm khác nhau và ít nhiều để lại dấu ấn riêng. Có một điều rằng, ở Việt Nam trong giai đoạn đó, các nhà nghiên cứu phê bình chủ yếu đi theo hướng thể nghiệm, ứng dụng các lí thuyết vào phê bình chứ không chủ trương giới thiệu lí thuyết văn học. Kiều Thanh Quế là một trong những người tiên phong trong việc giới thiệu và hệ thống hóa về mặt lí thuyết các phương pháp phê bình. Làm công việc đó, ông có điều kiện tiếp cận tìm hiểu sâu lí thuyết từng trường phái. Tuy nhiên, trong khi áp dụng vào công việc nghiên cứu phê bình, ta lại thấy ông không theo hẳn một trường phái hay một phương pháp nào mà luôn có sự lựa chọn ứng dụng phù hợp với mỗi đối tượng. Cũng như từ đầu đến cuối, ta thấy ông vẫn luôn giữ một thái độ khách quan, khoa học, tuân theo các nguyên tắc biện chứng để thẩm định, đánh giá một tác phẩm, ít khi ông để lộ cái tôi hoặc đường hướng tư tưởng của mình trong các bài nghiên cứu, phê bình. Đó là một trong những điểm đặc biệt và cũng là đáng trọng ở ngòi bút này. Tổng kết lại trong toàn bộ di sản văn học của Kiều Thanh Quế, chúng tôi nhận thấy ông có vận dụng một số phương pháp nghiên cứu, phê bình chính như phương pháp phê bình tiểu sử của Sainte Beuve; phương pháp phê bình văn hóa – lịch sử của H. Taine; phương pháp phê bình giáo khoa của Lanson; phương pháp so sánh, phương pháp phê bình trực giác, cũng như vận dụng thuyết tiến hóa văn học của Brunetière. Phương pháp nghiên cứu văn hóa – lịch sử Phương pháp nghiên cứu này thể hiện rõ trong công trình Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam 1943 của Kiều Thanh Quế. Mặc dù tác phẩm được kết cấu tựa trên bình diện ngôn ngữ, nhưng ở đó, tác giả khảo cứu rất kĩ lưỡng các yếu tố về lịch sử, văn hóa trong nước cũng như khu vực Đông Á có tác động đến việc hình thành các trào lưu, khuynh hướng văn học thời trung đại. Đây là phương pháp nghiên cứu thông dụng trong các công trình khảo cứu văn học thời bấy giờ như Việt Hán văn khảo, Việt Nam cổ văn học sử… Tuy nhiên, với Kiều Thanh Quế, phương pháp này có phần phát huy hiệu quả hơn, bởi ông đã chọn lọc và dựa trên nhiều tài liệu lịch sử để mô tả và lí giải các vấn đề của văn học. Phương pháp này cũng cho thấy quan niệm Văn – Sử – Triết bất phân vẫn có một sự chi phối nhất định trong lĩnh vực khảo cứu văn học lúc bấy giờ. Do dòng văn học mà ông đang nghiên cứu chủ yếu là văn học thời kì trung đại nên cảm quan lịch sử không tách rời văn chương, tư tưởng. Phương pháp này cũng được Kiều Thanh Quế vận dụng trong công trình Ba mươi năm văn học 1942. Phương diện văn hóa được ông trình bày từ sự hình thành, vận động và phát triển của chữ quốc ngữ cùng các thiết chế văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng phương Tây du nhập vào Việt Nam. Về lịch sử xã hội, Kiều Thanh Quế cho thấy một xã hội đang vận động theo xu hướng hiện đại hóa với sự trợ lực của ngành xuất bản, báo chí và ngành thương mại văn học đang khởi sắc. Nhu cầu đọc của dân chúng ngày càng cao là kết quả của một xã hội đang phát triển. Cùng lúc đó, văn hóa đọc là bệ phóng cho văn học chữ quốc ngữ ra đời đa dạng về thể loại, đáp ứng được thị hiếu thẩm mĩ của người đương thời, từ thơ ca, đến là tiểu thuyết, phóng sự, truyện ngắn, kịch nói, phê bình, dịch thuật… Ngoài ra, ta còn thấy Kiều Thanh Quế kế thừa tinh thần thuyết tiến hóa văn học của Brunetière để dẫn dắt, lí giải, giúp người đọc có thể hình dung quá trình vận động, phát triển của văn hóa, văn học nước nhà. Cùng với đó, tác giả còn cho thấy một cơ chế xã hội học văn học đã hình thành, tồn tại và chi phối sự phát triển của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Có thể nói, với công trình này, Kiều Thanh Quế đã kết hợp khá hiệu quả các phương pháp nghiên cứu nhằm vẽ nên một bức tranh 30 năm văn học Việt Nam. Trở lại phương pháp chủ đạo là văn hóa – lịch sử, Kiều Thanh Quế còn vận dụng khi bàn về Truyện Kiều trong bài “Nỗi lòng Tố Như dưới triều Gia Long”. Bài viết dẫn ra nhiều cứ liệu về lịch sử cuối Lê đầu Nguyễn cũng như các yếu tố về tiểu sử của Nguyễn Du nhằm minh giải một số tình tiết trong Truyện Kiều. Ông đã cho thấy được mối liên hệ cũng là sự tương đồng trong chính cuộc đời của Nguyễn Du được thể hiện qua một số câu thơ trong Truyện Kiều. Cuối cùng, ông xác định “Truyện Kiều phản ánh tấm lòng Tố Như dưới triều Gia Long” Nguyen & Phan, 2009, Phương pháp phê bình tiểu sử Phương pháp phê bình tiểu sử vốn là một phương pháp rất thịnh hành trong môi trường nghiên cứu văn học lúc bấy giờ. Tuy nhiên, với phương pháp này, Kiều Thanh Quế sử dụng khá chừng mực. Một phần vì Kiều Thanh Quế không chú trọng mảng phê bình nhân vật mà thường phê bình tác phẩm hoặc các sự kiện văn học. Do vậy, phương pháp này không phải là thông dụng và tối ưu đối với ông. Trong một số trường hợp cụ thể, khi nhận thấy phần tiểu sử nhà văn ánh xạ rõ nét trong sự hình thành cốt truyện và phong cách viết văn, Kiều Thanh Quế mới vận dụng phương pháp này. Bài phê bình “Chân trời cũ” của Hồ Dzếnh là một trong những trường hợp đặt biệt đó. Ông cho rằng “cốt truyện tác giả dàn xếp trong đoản thiên của mình toàn là chuyện gia đình tác giả – một gia đình Trung Hoa sống trên đất Việt Nam… Điều khiến tôi cảm động là lòng sầu xứ không thôi cộng với nỗi đau khổ của tác giả” Nguyen & Phan, 2009, Ngoài ra, trong phần phê bình tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Kiều Thanh Quế cũng ít nhiều sử dụng phương pháp này khi tìm mối liên hệ với tiểu sử nhà văn, nhằm lí giải khuynh hướng sáng tác của nhà văn họ Vũ này. Phương pháp liên tưởng, so sánh So với các phương pháp nghiên cứu, phê bình khác, đây là phương pháp được ông vận dụng nhiều nhất, đan xen trong các bài phê bình. Đặt đối tượng nghiên cứu trong mối liên hệ liên tưởng, so sánh, Kiều Thanh Quế cho thấy biên độ cũng như sự giao thoa giữa các vùng văn học hoặc các đối tượng khác nhau, từ đó khắc họa rõ nét đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này được ông sử dụng một cách uyển chuyển, linh hoạt, tạo cho bài viết có một đường dây dẫn dắt, tạo sự hấp dẫn cho người đọc cũng như dùng để cập nhật các kiến thức văn học cho độc giả. Chính Kiều Thanh Quế trong một bài phê bình khác đã cho rằng vận dụng phương pháp đối chiếu so sánh sẽ giúp cho những lời bàn giải có thêm căn cứ và điểm tựa để tăng sức thuyết phục trong lập luận Nguyen & Phan, 2009, Như vậy, so sánh là một phương pháp được Kiều Thanh Quế ý thức lựa chọn nhằm làm mạnh mẽ, sáng rõ thêm các vấn đề mà ông đang đề cập. Chẳng hạn khi phê bình Giông tố của Vũ Trọng Phụng, ông liên hệ với Tiêu sơn tráng sĩ của Khái Hưng và Trường đời của Lê Văn Trương để so sánh về dung lượng, cũng là một cứ liệu để giúp ông khẳng định giá trị của Giông tố. Ông cho rằng “Giông tố của Vũ Trọng Phụng về lượng ngang ngửa với Trường đời của Lê Văn Trương nhưng về phẩm thì vượt cao hẳn lên một cách trông thấy” Nguyen, & Phan, 2009, Và cũng đề phòng ý kiến cho rằng một tác phẩm hay không nhất thiết phải dài, ông lập luận và dẫn chứng các tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng trên thế giới để làm vững chắc thêm ý kiến của mình. Các bạn đừng vội tin câu “văn hay bất luận đặt dài” của bọn văn sĩ bất tài đem ra phỉnh phờ các bạn. Vì chúng tôi đố các bạn tìm đâu ra được một cuốn tiểu thuyết Âu châu trừ nước Pháp mỏng meo sốc sếch như đa số tiểu thuyết ta trình bày nhan nhản ở khắp hàng sách trong nước hiện nay. Cuốn tiểu thuyết nào của Marxim Gorki, Léon Tolstoy, Dostoievsky, Sinclair Lewis, Stefan Zweig, Somerset Maugham, Vicki Baum, Blasco, Hânez, Pearl Buck cũng dày ba bốn trăm trang. Nguyen, & Phan, 2009, Không chỉ so sánh về kĩ thuật viết, ông còn có những liên tưởng, so sánh về nội dung đề tài. Trong khi phê bình Quê người của Tô Hoài, ông đã liên hệ với Sau lũy tre xanh của Khái Hưng và Con trâu của Trần Tiêu để khái quát thành một bộ “nhân sinh hí kịch sau lũy tre xanh” ở đất Bắc Nguyen, & Phan, 2009, Cùng hệ đề tài này, ông cũng liên hệ các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh ở Nam Bộ như Con nhà nghèo, Ngọn cỏ gió đùa, Cay đắng mùi đời… Cũng bằng phương pháp so sánh này, ở nhiều chỗ đã cho thấy cặp mắt phát hiện khá tinh tường của Kiều Thanh Quế. Chẳng hạn trong bài phê bình Đồng bệnh – kịch của Khái Hưng, ông nhận thấy “kịch Khái Hưng khác kịch của Đoàn Phú Tứ ở điểm người đàn bà là chủ động trong kịch của Đoàn Phú Tứ, trong khi người đàn ông đóng vai trò quan trọng ở kịch Khái Hưng” Nguyen, & Phan, 2009, Cuối cùng, thẩm định lại tài năng của tác giả này, ông thay nhận định bằng một phép so sánh “Ngòi bút Khái Hưng dồi dào lắm! Nhưng dồi dào đâu phải đồng nghĩa với đặc sắc! Khái Hưng viết tiểu thuyết diễm tình, gia đình thành công không ai chối cãi được. Bắt sang lịch sử tiểu thuyết, tác giả Tiêu Sơn tráng sĩ vẫn còn đáng trọng hơn Lan Khai. Nhưng trong phạm vi kịch bản, chúng tôi không làm sao khỏi đặt Khái Hưng dưới Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ!” Nguyen, & Phan, 2009, Phương pháp phê bình trực cảm Cùng với các phương pháp nghiên cứu văn hóa – lịch sử, phương pháp phê bình tiểu sử, Kiều Thanh Quế đâu đó vẫn có sử dụng phương pháp trực cảm hay còn gọi là trực giác để cảm nhận và đánh giá một vài đối tượng văn học. Vận dụng phương pháp này, theo chúng tôi, là một trong những cách làm mềm hóa ngòi bút trọng về tư duy biện chứng của Kiều Thanh Quế. Thật ra đây không phải là một phương pháp thuần túy mang tính chủ quan. Kiều Thanh Quế từng phê bình “Triết học Bergson” và đã nhận thấy rằng Trực giác là một phương pháp nhận thức biệt hẳn ra ngoài lí trí nhưng không phải phản với lí trí. Thực tại nào mà trực giác đã tìm ra cũng có thể dùng lí trí để thí nghiệm xem xét lại. Thế thì tiếng “trực giác” đây không phải theo nghĩa thông thường, chỉ một cách ức đoán, một sự cảm giác thuần thuộc về chủ quan, một cái tâm trạng thuộc về tình cảm đâu. Trái lại đó là một cách suy nghĩ, một cách chú ý thâm trầm, không thiết đến sự hành động ở ngoài, bỏ cả những tiếng nói và lí luận thông thường để mà trực tiếp cảm xúc lấy cái chân tướng. Nguyen, & Phan, 2009, Ông cho rằng trực giác của Bergson là trực giác suy lí. Nó khác với trực giác của nhà Phật, là trực giác thần bí. Trong một số bài phê bình, Kiều Thanh Quế hay có những nhận định ban đầu theo hướng trực cảm này nhằm tóm lấy toàn bộ ý cốt lõi của vấn đề, mới xem qua thấy có phần hơi chủ quan; tuy nhiên, ngay sau đó bằng những lập luận, dẫn dắt, diễn giải cận văn bản, ông đã cho người đọc thấy được vì sao ông có cảm nhận đó. Hoặc cũng có một số đoạn ta thấy ông để mạch văn chiều theo cảm xúc của mình. Đó là những lúc ngòi bút vốn rắn rỏi của ông trở nên mềm mại, nhẹ nhàng, gợi sự liên tưởng. Phương pháp này cũng có phần gần với lối phê bình văn học cổ điển phương Đông, làm mềm hóa tính rạch ròi của ý thức. Mặc dù mạnh ở tinh thần khúc chiết, khoa học kiểu phương Tây, nhưng về cảm quan chung, Kiều Thanh Quế vẫn giữ lại phần nào nét cổ điển. Có thể nói rằng, đối với các thể loại có sự tiếp nhận kĩ thuật viết của phương Tây, về mặt hình thức, Kiều Thanh Quế luôn chú trọng kĩ thuật viết, còn về nội dung, ông sẽ đứng trên quan điểm xã hội tiến bộ. Nhưng khi phê bình thơ ông lại để tâm hồn mình nghiêng về phía cổ điển nhiều hơn. Đối với Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân, khi phê bình, Kiều Thanh Quế gián tiếp bộc lộ cảm quan này khi không đánh giá cao tác phẩm của các nhà thơ Mới chịu ảnh hưởng trào lưu cách tân văn học của phương Tây như Bích Khê, Hàn Mặc Tử. Nói cho cùng, thơ là chuyện của tâm hồn. Ở một chừng mực nào đó, những người làm văn chương ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, đặc biệt là có xuất thân từ vùng đất Nam Bộ ít nhiều vẫn còn lưu giữ một phần mĩ cảm của cái truyền thống. Cho nên, với phương pháp phê bình trực giác này, ta thấy ở Kiều Thanh Quế vừa có tiếp thu của Bergson, vừa giữ lại một chút cảm quan cá nhân thuộc về truyền thống văn học phương Đông, khó tách rời. Ngoài các phương pháp kể trên, Kiều Thanh Quế cũng hay sử dụng một số phương pháp tuy lúc đó chưa thành tên gọi giống sau này như thi pháp học, phong cách học và cả phương pháp phê bình giáo khoa. Với phong cách học, trong phê bình Chân trời cũ của Hồ Dzếnh, ông đã nhận ra “tánh cách ngòi bút” của tác giả này. “Văn chương Hồ Dzếnh có những nhịp uyển chuyển và buồn lạ như những khúc nhạc lâm li ai oán. Những khúc nhạc đều đều ấy… gợi lên được bao nhiêu vang bóng trong lòng độc giả” Nguyen & Phan, 2009, Hay trong khi phê bình Giông tố của Vũ Trọng Phụng, ông nhận định “Vũ Trọng Phụng viết tiểu thuyết chú trọng ở tính cách duy nhất, uyển chuyển, rộng rãi của sự sống” Nguyen, & Phan, 2009, Về phương pháp phê bình thi pháp học, ta thấy đậm nhạt trong bài “Câu chuyện con số trong thơ và nhạc trong thi ca”. Ở đó, ông chú trọng phân tích kĩ lưỡng từng kí hiệu văn học như nghệ thuật dùng con số, phân tích nghệ thuật cộng hưởng âm của một bài thơ Việt Nam trong tương quan so sánh ngôn ngữ thơ giữa tiếng Việt và tiếng Pháp. Đoạn phân tích giá trị biểu đạt của câu thơ “Bóng dương mấy buổi xuyên ngang/ Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai” qua bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm mới thật tài tình, đã cho thấy một khả năng phân tích tâm lí thấu đáo. Ông viết Ai hẹn với mình mười lần mà sai hết mười, mình đau đớn thật. Nhưng sự đau đớn của mình chỉ trong một thời gian rất ngắn mà thôi. Vì mình thấy rõ mình không có một mảy may hi vọng nào được kẻ ấy thương tưởng đến. Còn ai hẹn với mình mười lần mà sai hết chín, được một lần đúng hẹn thì sự đau đớn của mình dài dằng dặc… Vì một lần đúng hẹn, người tình của mình đã gieo vào lòng mình một tia hi vọng. Mang tia hi vọng mong manh ấy, mình đau khổ, cho đến chín lần chờ đợi mà không được gặp ý trung nhân. Nguyen, & Phan, 2009, Hơn nữa, ông cũng chú trọng thi pháp không gian, thi pháp thời gian cùng nhạc tính trong các đoạn dịch thơ trong khi đối chiếu với nguyên tác. Những lí giải của ông thật tường tận, phần nào cho thấy sự cẩn trọng và tinh tường trong cách cảm thụ thi ca. Mặc dù trong bài viết này, Kiều Thanh Quế có giải thích rằng, đó là ý tưởng có được trong cuộc hội đàm với nhà nghiên cứu văn hóa Phạm Thiều, nhưng cũng cho thấy được chút sở trường cũng như quan điểm thẩm mĩ của nhà phê bình họ Kiều. Về phương pháp phê bình giáo khoa, ta thấy xuất hiện đậm nhạt trong hầu hết các bài phê bình của Kiều Thanh Quế. Đặc điểm của phương pháp này là có sự kết hợp hài hòa các phương pháp tiểu sử, phương pháp văn hóa – lịch sử, phương pháp xã hội học và quan trọng là chú trọng đến văn bản. Ông cho rằng “phê bình một tác phẩm có giá trị về cốt truyện mà không để ý đến lối hành văn của tác giả thì chưa phải là làm được một công việc theo ý muốn của nhà phê bình” Nguyen & Phan, 2009, Vì thế, trong phê bình tác phẩm, Kiều Thanh Quế thường chú tâm đến kĩ thuật xây dựng tác phẩm chứ không chỉ đơn thuần chú ý đến nội dung. Trong bài phê bình “Bỉ vỏ của Nguyên Hồng”, ông chú ý “lối viết phóng sự tiểu thuyết” của Nguyên Hồng. Đó là “mục kích được một cảnh đời chạy vỏ của một “bỉ vỏ”. Nguyên Hồng nghĩ ra ngay một câu chuyện dàn xếp rất mạch lạc, trong đó bỉ vỏ ấy là vai chủ động và lấy cái tân tiểu thuyết là Bính” Nguyen, & Phan, 2009, Từ đó, ông cũng ngầm phê bình tác phẩm phóng sự của Trọng Lang “thấy sao chép y lại, để cả tên thiệt” không có tính nghệ thuật. Nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn này mà ta thấy các bài viết của Kiều Thanh Quế đều có tính chất biện chứng, khoa học, tăng sức thuyết phục đối với người đọc. Về phương pháp nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế, ta thấy có những nét tương đồng với một số cây bút phê bình ở Nam Bộ lúc bấy giờ như Lê Tràng Kiều, Lê Thọ Xuân, Hoàng Hạ Huệ. Tuy nhiên, ở Kiều Thanh Quế lại có sự hòa trộn, linh hoạt, uyển chuyển trong các phương pháp, tùy thuộc vào đối tượng tiếp nhận. Điều này có một phần lí do bởi đây là giai đoạn mà các lí thuyết văn học chưa được nhìn nhận một cách chuyên biệt như giai đoạn sau. Các phương pháp nghiên cứu đã tồn tại trong một trường vận động chung trong xu thế vừa mới tiếp nhận từ nước ngoài. Về phía chủ quan, bản thân Kiều Thanh Quế có điều kiện tiếp cận lí thuyết của nhiều trường phái phê bình văn học, do đó ông có cơ hội để lựa chọn và giữ được tâm thế bình tĩnh trước thế cuộc văn học lúc bấy giờ. Nhìn chung, trước sau ông vẫn là một ngòi bút trọng sự khoa học, nghiêm túc và tính hàn lâm trong lĩnh vực nghiên cứu. Mặc dù trong cuộc đời riêng ông có tham gia hoạt động cách mạng, nhưng ông không để thiên hướng chính trị chi phối cách nhìn nhận và đánh giá tác phẩm. Điều đó đã cho thấy một sự thận trọng, chừng mực trong ngòi bút, một trong những phẩm chất cần thiết của một nhà nghiên cứu. Đặc điểm kết cấu, văn phong, ngôn ngữ trong nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế Đặc điểm về kết cấu Các bài nghiên cứu của Kiều Thanh Quế hầu hết đều được kết cấu một cách logic, khoa học theo lối diễn dịch, hoặc có khi là tổng – phân – hợp. Ở đó, tác giả chủ động sắp đặt các ý tứ đi từ khái quát vấn đề rồi đến diễn giải, cuối cùng tổng kết, khẳng định lại vấn đề. Có khi từ một trường hợp, ông khái quát thành một bức tranh rộng lớn của văn học hoặc ngược lại, từ một vấn đề chung khái quát ông đi vào một trường hợp cụ thể. Ở những bài viết mang tính chất điểm sách, tác giả thường gói gọn ý tưởng ngay từ ban đầu bằng một nhận định khen hoặc chê, sau đó sẽ đi vào chứng minh cho lập luận của mình. Rải rác trong các bài phê bình của mình, Kiều Thanh Quế còn xen kẽ đề cập các khái niệm, thuật ngữ văn học hoặc các vấn đề lí thuyết có liên quan nhằm làm rõ thêm vấn đề trong bài viết. Chẳng hạn trong bài phê bình “Làm đĩ”, “Thanh niên “Người đàn bà trần truồng” và quan niệm tình dục trong văn chương Việt Nam, để làm rõ hơn lập luận của mình, Kiều Thanh Quế đã dẫn một phần giới thiệu cho độc giả hiểu được tinh thần cốt lõi học thuyết phân tâm học của Freud. Trong phê bình “Nắng đào” của Nguyễn Xuân Huy, khi khẳng định “Nắng đào” thuộc chủ nghĩa lãng mạn, nhà phê bình đã dẫn một đoạn nói về sự ra đời chủ nghĩa lãng mạn ở Pháp, đồng thời cho thấy trào lưu văn học đó ở Việt Nam lúc bấy giờ không còn phù hợp nữa. Ngoài ra, việc sử dụng khái niệm làm điểm tựa cho các lập luận, kiến giải và phê bình trong các bài viết cũng góp phần làm tăng tính khoa học, hàn lâm, mặt khác cung cấp thêm tri thức cho độc giả. Thiết nghĩ đây là một điều cần thiết bởi trong bối cảnh lúc bấy giờ không phải tất cả độc giả văn chương đều đã được tiếp cận sâu sát các lí thuyết văn học ở nước ngoài. Đây vừa là một hành động có ý thức nhưng có thể cũng là một thói quen của một số nhà nghiên cứu, phê bình văn học giai đoạn này. Một điểm đặc biệt nữa ta thấy trong các bài viết của Kiều Thanh Quế là lối kết cấu thể hiện rõ thời gian sự kiện cũng như tính thời sự của vấn đề. Nhiều bài viết của ông nhằm trao đổi, đối thoại lại bài viết của các tác giả khác vừa công bố trên báo. Nắm bắt các sự kiện văn học một cách nhanh nhạy, ông rất chú ý về phương diện thời gian của các sự kiện văn học. Các từ ngữ ông thường sử dụng trong lập luận là “vừa rồi”, “gần đây”, “năm ngoái”, “trước đây”, “xa một chút”, “ít lâu sau”… Do vậy mà đọc bài của ông, người đọc thấy rõ hơi thở cũng như nhịp vận động của đời sống văn học. Ông không tách biệt hoặc phơi bày sự kiện văn học như một đối tượng biệt lập với đời sống để giải phẫu, nghiên cứu mà để các sự kiện được “nóng hổi” hơi thở trong chính cuộc sống của nó. Tuy nhiên, đâu đó trong một số bài phê bình ta vẫn thấy có những kết cấu không chặt chẽ hoặc có những liên hệ nằm ngoài hệ thống. Nguyễn Văn Trung khi đọc cuốn Ba mươi năm văn học và Tiến hóa văn học Việt Nam của Kiều Thanh Quế đã công nhận đóng góp của Kiều Thanh Quế là “đi xa hơn trong dự định muốn phác họa lịch trình diễn tiến văn học của cả một dân tộc”, tuy nhiên ông cũng thẳng thắn nhận xét công trình của Kiều Thanh Quế là “chưa hẳn là một xây dựng có hệ thống văn học sử mà chỉ là phát họa những nét lớn của một lịch trình diễn tiến văn học và những tiêu chuẩn đề ra để phân chia thời kì, khuynh hướng văn học cũng chưa được hợp lí lắm” Nguyen, 1968, Nhà nghiên cứu Hoài Anh, tác giả cuốn Chân dung văn học cũng đã dành một số lượng trang đáng kể để phân tích những đóng góp cũng như hạn chế của tác giả phê bình này. Trong đó, ông cũng chỉ ra những chỗ ông cho rằng Kiều Thanh Quế đã khá rời rạc, thậm chí là tự mâu thuẫn trong quan điểm nghiên cứu Hoai, 2001, Theo chúng tôi, vì hầu hết các bài phê bình, nghiên cứu của Kiều Thanh Quế được công bố qua báo chí nên ông thường kết cấu theo lối mở hơn là một kết thúc đóng kín. Lối viết này thường mang lại cho người đọc sự bất ngờ, đồng thời dễ gợi những ý kiến trao đổi, nghị luận, một hoạt động thường xuyên, cũng là thế mạnh trong hoạt động văn học giai đoạn này. Đặc điểm về văn phong Sức mạnh của ngòi bút phê bình Kiều Thanh Quế được tạo nên bởi văn phong súc tích, chặt chẽ cùng với lối viết thẳng thắn, đi trực diện vào vấn đề. Đây là một lối viết khá thẳng thắn, không vòng vo, thể hiện cái nhìn bộc trực, chỉ rõ những điểm hay, dở của tác phẩm chứ không câu nệ, cả nể. Nhiều câu trong bài viết, ông sắp đặt theo lối diễn giải, tạo sự rành mạch, dễ hiểu. Ví dụ như câu “Những nhát bay giản dị là nghệ thuật Tô Hoài câu văn ngắn mà đủ nghĩa nhờ những chữ không cầu kì mà đặt đúng chỗ” Nguyen & Phan, 2009, Hoặc cũng có khi ông viết theo lối nêu khái niệm “Nhà văn là nhà sáng tác. Nhà bác học là bực học rộng chuyên biên khảo, dịch thuật chớ không có sáng tác nào đáng kể” Nguyen & Phan, 2009, Nhiều đoạn trong bài viết Kiều Thanh Quế cũng dùng giọng văn trao đổi, tranh luận “Thế nào là nhà văn? Ở đầu tác phẩm của mình, Vũ Ngọc Phan đã định nghĩa […]. Định nghĩa như thế Vũ Ngọc Phan chỉ mới phân biệt nhà văn với nhà báo thôi! Ông còn quên cho độc giả rõ thế nào là nhà văn, thế nào là nhà bác học!” Nguyen & Phan, 2009, Ông cũng hay dùng các cụm từ chỉ ý trao đổi, tranh luận làm sáng tỏ vấn đề như “đố ai tìm được…”, “sao có thể gọi là…”, “một tác phẩm được mọi người cho hay, vị tất đã là hay! Điều gì cổ nhân bảo phải, vị tất đã là phải!” Nguyen, & Phan, 2009, Là một cây bút phê bình văn chương, nhưng không chỉ dừng lại ở chủ đích thẩm bình, khen chê, Kiều Thanh Quế còn xem nghệ thuật phê bình là một cách thức để góp phần xây dựng, làm thay đổi tương lai nền văn học nước nhà. Chính vì vậy mà những lập luận của nhà phê bình họ Kiều khá thẳng thắn trên tinh thần góp ý, xây dựng. Phê bình “Triết học Bergson” của Lê Chí Thiệp, ông góp ý “Ước gì ông tác giả cuốn sách vừa bàn về trực giác của Bergson lại vừa nói chút đỉnh đến “trí lương tri” của Vương Dương Minh thì hay biết mấy. Chỗ dị đồng giữa Vương Dương Minh và Bergson cũng như chỗ dị đồng giữa Bergson và Tagore chắc hẳn là không phải không có Nguyen & Phan, 2009, Hay trong bài phê bình tác phẩm “Trở lửa vỏ ra”, một tiểu thuyết của Phan Khôi, Kiều Thanh Quế thẳng thắn góp ý vị tiền bối của mình “Ông Phan Khôi nên dành để nghệ thuật quý báu của mình nghệ thuật khảo cứu mà phụng sự những điều mình sở đắc. Tiểu thuyết không phải địa hạt của Phan tiên sinh” Nguyen & Phan, 2009, Ngòi bút ấy còn mạnh dạn trong việc đúc kết vấn đề, tạo điểm nhấn cũng như sức gợi cho người đọc. “Sau Khái Hưng còn có Trần Tiêu, Tô Hoài… Sau Hồ Biểu Chánh chỉ có Hồ Biểu Chánh hay sao? Nếu thế, đáng buồn thay cho làng tiểu thuyết Nam Kỳ!” Nguyen, & Phan, 2009, Có thể nói, tính cách thẳng thắn, bộc trực đã đi vào văn phong, cách triển khai bài viết cũng như sự quan tâm đến những vấn đề văn học của Kiều Thanh Quế. Đôi khi tự biết sự thẳng thắn của mình sẽ gây ra nhiều ý kiến bất lợi, nhưng trước sau ông vẫn giữ vững thái độ đó trong ngòi bút. Hơn một lần ngòi bút phê bình của Kiều Thanh Quế thể hiện quan điểm “yêu công lí” khi chỉ ra những trường hợp không thành thật trong văn chương. Đó là nghi án đạo thơ của Lưu Trọng Lư trong bài viết “Thi sĩ Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu” đăng trên Tri Tân, số 138 tháng 4-1944, chỉ ra sự không thành thật của Lan Khai trong bài phê bình “Cuộc hội ngộ Lan Khai – Zweig “Tội và thương” gặp “La Peur” đăng trên Tạp chí Tri Tân số 43 tháng 4-1942, rồi đến bài “Vở “Jalousie” của Sacha Guitry biến thể trong Ghen’” đăng trên Tạp chí Tri Tân số 76 17-12-1942. Cũng trong bài viết này, Kiều Thanh Quế đã nêu rõ quan điểm của mình “Sau bài phê bình Tội và thương của Lan Khai, nhiều người chuộng sự thành thật trong văn chương tỏ lời khuyến khích ngọn bút hèn kém này, nhưng cũng có lắm kẻ nệ chấp cho chúng tôi làm thế là vì ác ý với tác giả. Ở đây chúng tôi xin miễn thân oan cho mình, và xin theo đuổi công việc của mình…” Nguyen, & Phan, 2009, Từ đó ta thấy, trong phê bình, Kiều Thanh Quế là một ngòi bút có cá tính, yêu sự chân thật, rõ ràng. Nhiệt tâm với công việc xây dựng nền văn học, ông đã bộc lộ tinh thần “trượng nghĩa” vốn hiện diện sâu đậm trong đời sống người dân Nam Bộ. Mặc dù vậy, ông cũng ý thức được đâu là điểm dừng của một nhà phê bình. Phê bình một tác giả hay tác phẩm, Kiều Thanh Quế chủ trương “Thi tài của một nhà thơ cần phải đem phân tích, rồi để độc giả nhân đó nhận thức, đánh giá trình độ, cái hay của thi sĩ ấy. Nhà phê bình, nhà làm truyện kí khỏi cần phải lôi thôi thêu dệt bằng lắm lời hoa mĩ…” Nguyen, & Phan, 2009, Phê bình một tác phẩm, theo ông, nhà phê bình cần phải chừng mực trong ngòi bút, tránh dẫn dắt độc giả tin theo những ý tưởng chủ quan của mình. Đặc điểm về ngôn ngữ Trong nghiên cứu cũng như phê bình, ngôn ngữ Kiều Thanh Quế có những đặc điểm như Sử dụng nhiều từ Hán Việt hoặc trích dẫn những câu chữ Hán thường dùng trong lí luận truyền thống. Ví dụ như trong bài phê bình ngòi bút viết truyện của Phan Khôi, Kiều Thanh Quế mở đầu bằng câu “Người đời xưa bảo “Không nên lấy từ hại ý”. Ông Phan Khôi không nghe lời” Nguyen, & Phan, 2009, Người xưa ở đây là chỉ những nhà tư tưởng lí luận văn học Trung Quốc, cụ thể ở đây là của Lưu Hiệp trong cuốn Văn tâm điêu long. Ngoài ra, nhiều khi trong một đoạn mà tác giả sử dụng xen kẽ những từ Hán Việt và những từ dịch ra từ tiếng Pháp, như “Trong phương hoạch hành văn procédé de style, trọng yếu nhất là hình tượng image và tả ảnh từ métaphore. Tả ảnh từ dạy cách chuyển tánh chất một thứ dễ ý hội sang một thứ khó ý hội. Cách chuyển hóa này biến thành lối so sánh, tỉ giảo comparasion” Nguyen, & Phan, 2009, Trong bài “Phiên dịch cũng là cách đào luyện văn chương” đăng trên Tri Tân số 49 6-1942, có đoạn Biết bao danh sĩ Tàu, Nhật sở dĩ quảng kiến đa văn được là nhờ học ở sách dịch. Lương Khải Siêu, một danh sĩ Tàu hồi Trung Hoa dân quốc thành lập chẳng hạn, nhờ học ở sách dịch mà uyên bác được tất cả uyên nguyên học phái triết học, khoa học, sử học… từ thượng cổ trải qua trung cổ đến tân kim thời đại, từ Hy Lạp trải qua La Mã đến Anh, Pháp, Đức, Mĩ thông hiểu được thuyết thực nghiệm của Bacon, thuyết tồn nghi của Descartes, thuyết xã ước của Rousseau, thuyết chánh trị, tạm quyền của Montesquieu, thuyết nguyên phú của Smith, thuyết quốc gia của Bluntchi, thuyết thiên diễn của Darwin, thuyết triết học điều hòa của Kant, thuyết lợi lạc của Bentham… Nguyen, & Phan, 2009, Lối sử dụng ngôn ngữ này có trong các bài nghiên cứu và phê bình của Kiều Thanh Quế khá nhiều. Viết nguyên âm những từ tiếng Pháp mà không dịch nghĩa. Ví dụ đoạn Kiều Thanh Quế viết về chủ nghĩa hiện thực “Ở nước ta trước thời kì 1935-1936 hay ở vào nước Pháp trước năm 1850, tức sanh nhằm một thời đại nó phân cách hậu diệp chánh thể dân chủ buộc joa démocratie bourgeoise với sơ diệp chánh thể dân chủ xã hội démocratie sociale” Nguyen, & Phan, 2009, Điều này có thể tạo nên sự khó hiểu cho người đọc bây giờ, nhưng giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, đó có lẽ là một hiện tượng phổ biến ở Nam Bộ. Bởi ngay cả trong ca dao Nam Bộ cũng có hiện tượng viết nguyên âm tiếng Pháp mà không dịch này. Như câu “Bước vô Trường Án, vỗ ván cái rầm/ Bủa xua ông Tham Biện, bạc tiền ông để đâu” Cao dao Nam Bộ. Bủa xua là tiếng bồi đọc trại từ chữ bonjour của Pháp. So với các cây bút miền Bắc vào giai đoạn này, sự ảnh hưởng Hán học đã lùi dần, nhường chỗ cho văn hóa phương Tây, thì ở Nam Bộ, sự ảnh hưởng của nền Hán học vẫn còn tồn tại. Ngoài ra còn do thói quen sử dụng ngôn ngữ của người Nam Bộ. Nguyễn Văn Trung khi khảo sát văn học trên tờ Lục tỉnh Tân văn đầu thế kỉ đã nhận thấy rằng “riêng về từ, lời nói thường dùng từ nôm na bình dân, nhưng cũng có thể dùng nhiều từ Hán Việt, kể cả câu xuôi của chữ Nho mà người trí thức thời đó khi nói vẫn quen dùng nên khi viết cũng cứ để nguyên như vậy. Đến khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, đôi khi nói cũng pha tiếng Pháp, thì khi viết cũng viết như khi nói, không dịch ra” Nguyen, 2015, Nam Bộ là nơi có sự ảnh hưởng, giao lưu văn hóa khá đa dạng, lại thêm việc sử dụng tiếng Pháp từ rất sớm nên nhiều người đã quen với việc dung hợp nhiều thứ ngôn ngữ trong đời sống để thích nghi. Do vậy, trong ý thức, họ không cần dịch mà phát nguyên âm và mọi người vẫn có thể hiểu. Hơn nữa, văn học Nam Bộ còn có một đặc điểm là “văn viết học theo văn nói” trong khi miền Bắc thì ngược lại nên dần dần những yếu tố thuộc về phát âm cũng đi vào văn viết một cách tự nhiên. Ít chọn lọc ngôn ngữ viết thuần túy mà đã giữ lại cách diễn đạt tự nhiên, dân dã, đậm đặc ngôn ngữ của người bình dân Nam Bộ. Đặc điểm này hiện diện trong hầu hết các tác phẩm của Kiều Thanh Quế, kể cả nghiên cứu, dịch thuật và phê bình, nên phần nào cũng làm ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp trong văn phong nghiên cứu của ông. Ta có thể bắt gặp các từ như sanh, nhứt, lộn xộn, lôi thôi, dài ngoằng, cỏn con, vẽ vời, bưng, na ná, lèo tèo, nói qua loa… Theo Nguyễn Văn Trung, “Cuộc sống của miền Nam đưa người lưu dân đến chỗ dễ tước bỏ những cái trang trọng, đài các, chải chuốt, tế nhị, thâm trầm khi thực ra chúng chỉ còn là hình thức khuôn sáo quanh co ngăn chặn những thông cảm chân thành trực tiếp”. “Nói, viết văn cũng vậy. Trở về với cái chân thực, chân tình, thông cảm trực tiếp là trở về với ngôn ngữ nói hằng ngày, và nếu viết văn thì đó là thứ văn nói, nghĩa là thứ văn viết ra để đọc, để trình diễn cho mọi người xem, nghe bằng con mắt, lỗ tai, không phải thứ văn để đọc một mình” Nguyen, 2015, Cũng theo học giả này, sự trở về với lời nói hàng ngày trong văn chương không phải là một trường hợp riêng của miền Nam. Đó là một biểu lộ văn hóa ở những miền đất mới. Xét về một phương diện nào đó, nó biểu lộ “sự sống động, phong phú về ngôn ngữ của con người ở vùng đất mới, như một trở lại với cái khởi đầu, chưa có sự phân biệt, quy định chặt chẽ. Hiện tượng trên không phải là đặc thù, mà đúng ra chỉ bày tỏ một quy luật về văn hóa trong quan hệ của con người vùng đất cũ và vùng đất mới”, “biểu hiện một xã hội sống động đang chuyển mình, đổi mới” Nguyen, 2015, 452. Như vậy có thể nói, ngôn ngữ nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế thể hiện một đặc trưng rất Nam Bộ giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX. Do tiếp thu cả hai nền phê bình truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây, nên trong ngôn ngữ phê bình, ta thấy Kiều Thanh Quế thường sử dụng trộn lẫn ba ngôn ngữ vừa dùng từ Hán Việt, vừa sử dụng những thuật ngữ về văn học hoặc chính trị, tư tưởng bằng tiếng Pháp, vừa kết hợp lớp ngôn ngữ bình dân Nam Bộ. Tùy vào cách nhìn nhận của mỗi người, nhưng theo chúng tôi, điều này ít nhiều đã cho thấy được bản lĩnh, sự tự tin của một nhà nghiên cứu. Bởi một trí thức Tây học như Kiều Thanh Quế vốn đã tiếp thu một lối hành văn khúc chiết, khoa học từ phương Tây thì không lẽ nào không thể khắc phục được những hạn chế về cách dùng từ mang tính chất địa phương. Hơn nữa các tác phẩm của Kiều Thanh Quế không chỉ xuất bản trong phạm vi địa phương Nam Bộ mà còn được ông chủ động đưa “tiếng nói địa phương” ra tận miền Bắc thông qua việc đăng bài trên Tạp chí Tri Tân. Vì thế, có thể xem đây là một hành động có chủ đích trong việc tạo nên một chất giọng riêng hiếm có thời bấy giờ. 3. Kết luận Có thể thấy phong cách nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế gắn liền với lối tư duy thiên về lí trí, logic, xem trọng tính khoa học hơn là thiên về duy cảm; do đó, các tác phẩm của Kiều Thanh Quế dù là nghiên cứu hay phê bình cũng ít nhiều có giá trị về mặt lí luận và mang tính khoa học chứ không đơn thuần chỉ là tiếp nhận hoặc cảm thụ nghệ thuật. Về mặt kết cấu, các bài viết và công trình nghiên cứu của ông đôi chỗ có thể chưa được chặt chẽ nhưng cái chính là ông đã đóng góp cho độc giả và các nhà nghiên cứu sau này nhiều dữ liệu về các hoạt động trong đời sống văn học đương thời. Ngoài ra, do kiến văn rộng rãi, với lối so sánh và liên hệ linh hoạt, các công trình và bài viết của ông đã dẫn dắt, gợi mở cho người đọc nhiều vấn đề văn học có liên quan không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Quan trọng là ông không làm điều này chỉ để tăng sự sang trọng cho bài viết mà là muốn cung cấp thêm tri thức cho các độc giả trong nước thời bấy giờ. Cùng với Lê Thọ Xuân, Kiều Thanh Quế là một trong những nhà nghiên cứu tiên phong trong vấn đề mở rộng giao lưu học thuật giữa miền Nam và miền Bắc thông qua việc nhiều bài nghiên cứu, trao đổi, phê bình của ông được đăng trên Tạp chí Tri Tân. Riêng điểm này đã cho thấy được bản lĩnh và sự tự tin của ông trong môi trường giao lưu học thuật bấy giờ. Và mặc dù công bố các bài viết của mình ở môi trường học thuật miền Bắc nhưng Kiều Thanh Quế không vì thế mà làm giảm đi văn phong mang tính cách Nam Bộ. Khác với lối viết của Đông Hồ hay Trúc Hà rất gần với văn phong miền Bắc, trước sau Kiều Thanh Quế vẫn giữ được chất giọng Nam Bộ rất riêng của mình. Tất cả những điều này có lẽ không nằm ngoài dự định muốn tạo nên một diễn ngôn mới trong nghiên cứu văn học dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO Hoai Anh 2001. Literary portrait [Chan dung van hoc]. Hanoi Writers’ Association Publishing House. Nguyen, H. S., & Phan, M. H. compilation 2009. Evolution of Vietnamese literature [Cuoc tien hoa van hoc Viet Nam]. Hochiminh City Thanh nien Publishing House. Nguyen, V. T. 1968. Literary profile Literary research and criticism [Luoc khao van hoc nghien cuu va phe binh van hoc]. Saigon Nam Son Press. Nguyen, V. T. 2015. Research profile of the six provinces of Southern Vietnam [Ho so luc chau hoc]. Hanoi Tre Publishing House. Nguồn Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, Tập 17, Số 4 2020 743-754 Thánh Địa Việt Nam Học
các phương pháp phê bình văn học